Hình ảnh trang
PDF
ePub

(Những sản-vật phàm thứ gì khác thường, hoặc thứ đặc biệt nhiều hơn, hoặc thứ gì có đem cống hiến, hay có chịu thuế, mới biên vào đây, còn ngoài ra đã chép trong phủ-chí Thừa-Thiên).

HOÀNG.KIM (Vàng)

Sản-xuất ở núi huyện Hà-Đông, có thuế; đồng niên mỗi người nạp 3 tiền (tức 3 đồng cân) 3 phân, người già yếu chỉ phải nạp một nửa. Xét « Hán-Thư Chí » chép: huyện Lư-Dung có bến lượm vàng. Sách «Loại-Ngữ» của Lê-Quí-Đôn chép : Các núi ở phủ Thăng-Bình đều có sản xuất vàng. Đạo Trà Tế ở núi nhiều vàng, đạo Trà-Nổ ở sông nhiều vàng. Sách « Thông Chí» của Trịnh Hoài-Đức chép: Bạc tốt sản xuất ở phủ Thăng và phủ Điện.

ĐỒNG

Sản-xuất ở núi Đức-Bố huyện Hà-Đông.

THIẾT (sắt)

Sản-xuất ở núi huyện Duy-Xuyên, có thuế, mỗi năm nạp 60 cân.

QUYẾN (lụa)

Sản-xuất ở 2 huyện Diên-Phước và Duy Xuyên, có hộ chuyên nghiệp dệt quyển (dưới đây cũng vậy).

SA

Sản xuất ở huyện Diên-Phước, thứ sa lương dệt bông trái theo kiểu Việt Nam và các thứ sa khác, chế tạo không thua gì sa ở Quảng-Đông,

SO SA

Sản-xuất ở huyện Hà-Đông và huyện Diên-Phước.

HẮC-LĂNG (lãnh đen)

Sản-xuất ở huyện Diên-Phước.

YẾN-OA (tồ chim yến)

Sản-xuất ở đảo Đại-Chiêm, có yến-hộ lấy tổ yến đem nộp, đồng niên 80 lượng.

ĐÀO-KHÍ (đồ gồm)

Sản-xuất ở xã Thanh-Hà huyện Diên-Phước, có nghiệp-hộ,

QUÉ

Sản-xuất ở nguồn Thu-Bồn huyện Quế-Sơn, có thuế; mỗi năm nạp vỏ quế về hạng thượng thượng (siêu hạng) một miếng 8lượng. Nguồn Chiên-Đàn huyện Hà-Đông nạp quế thượng thượng hạng 3 miếng.

NAM TRÂN (tục danh bòn-bon)

Do vua Minh-Mạng đặt cho tên này. Ở nguồn Ô-Da huyện Đại-Lộc và nguồn Thu Bồn huyện Quế-Sơn đều có. Tháng 8,9 quả chín, sắc trắng vỏ mỏng mà ngọt thơm, có cống hiến. Niên-hiệu Minh-Mạng thứ 17 (1836) có chạm hình vào Nhân đỉnh, ngụ ý dâng làm phẩm-vật cúng tế.

AM-LA (xoài)

Có tên nữa là đại-mông, có cống hiến,

Sản-xuất ở huyện Diên-Phước, có nghiệp-hộ (nhà chuyên làm nghề đường). Lại có các thứ đường thạch-khối (đường phèn) đường băng-hoa (đường bộng), đường đen, đường mật. Người ta dùng đường cát chế làm hình long, lân, qui, phụng đề cúng tế.

YÊN-DIỆP (thuốc lá)

Sản-xuất ở Hoa-Viên ngon hơn hết; sau đó là thuốc ở Xuân-Phường và Cầm-Lệ.

LỤC-ĐẬU-BÍNH (bánh bột đậu xanh)

Ở phố Hội-An làm ngon hơn.

NAM-TRÀ (chè ta hay chè Huế)

Sản-xuất ở nguồn Thu-Bồn huyện Quế Sơn ngon hơn, thứ nữa là trà ở huyện Hà-Đông

DIÊM (muối)

Sản-xuất ở huyện Hoa-Vang và huyện Lễ-Dương, có thuế ruộng muối, mỗi nuông (đồ đong lường) phải đại-nạp 3 tiền (10 tiền gọi là 1 quan).

MẠCH-MÔN-ĐÔNG (củ tóc tiên)

Sản-xuất ở núi huyện Duy-Xuyên nhiều hơn, người ta đào lấy dùng nấu cao để trị chứng ho.

CẨM THẠCH (đá hoa gấm)

Sản-xuất ở núi Ngũ-Hành huyện Diên-Phước.

TỪ-THẠCH (đá nam-châm)

Sản-xuất ở núi thuộc huyện Quế-Sơn.

Sản-xuất ở miền núi huyện Duy-Xuyên và huyện Quế-Sơn, sắc đá xanh tim, dùng làm bia, cối xay, cối giã

THANH THẠCH (đá xanh)

Sản-xuất ở núi xã Trường-Bảo huyện Hòa-Vang; đá dài, lớn, người ta tạc làm ghế ngồi và xây dựng rất tốt.

BẠNG XÁC SA (vỏ hàu)

Sản-xuất ở phần sông xã Trà-Đỏa huyện Lễ-Dương (dưới đây cũng thuộc huyện nầy), dùng làm hồ xây gạch, lợp ngói, công dụng cũng như vôi-đá.

THỒ THÁN (than đất)

Sản-xuất chỗ lõm nơi gò cát xã Đăng-Lương, và xã NgọcSơn : Trong tháng mùa hạ đào lấy chặt ra thành miếng phơi khô, để đun nấu thay củi.

TÒNG (cây thông)

Sản-xuất ở các núi Duy-Xuyên.

THIẾT TUYỀN MỘC

Tục danh cây muồng, chất cây cứng chắc, sắc tim đen, chôn dưới đất không mục, dùng làm rường cột ;là thứ gỗ tốt, thở cây có phấn vàng, xức ghẻ lác rất hay.

GIÁNG MỘC

Tục danh gỗ sơn, sắc đỏ, chất bền, chịu đất không mục, dùng làm rường cột.

TỬ-MỘC

Tục danh gỗ Kiền-kiền, ở theo dọc núi các huyện đều có.

CẢM-LÃM-MỘC (cây đầu trám hay cây bùi)

Sản-xuất ở nguồn Hữu-Bang huyện Hà-Đông, thuế dầu cây

cân, nguồn Lỗ-Đông huyện Hòa-Vang 600 cân, nguồn Câu-Đê

1000 cân.

HOÀNG-LẠP (sáp ong)

Sản-xuất ở huyện Hà-Đông, mỗi năm nạp 16 cân 8 lượng. huyện Diên-Phước nguồn Ô-Da mỗi năm nạp 12 cân 8 lượng.

PHONG-MẬT (mật ong)

Nguồn Chiên-Đàn mỗi năm nạp 20 cân, nguồn Ô-Da mỗi năm nạp 128 cân.

GIÁ-TƯỚC

Tục danh chim mía, thường năm tháng 3 lúa chín, chim đậu cả bầy trong mía đề ra ăn lúa, người ở nơi ấy ban đêm lấy lưới chụp bắt có khi được đến ngàn con, vị rất thơm ngon.

THỦY ĐẲNG (mây nước)

Nguồn Chiên Đàn đồng niên nạp 3000 sợi,

THIẾT ĐẲNG

Nguồn Ô-Da đồng niên nạp 3.400 sợi.

LONG-ĐẲNG

Nguồn Ô-Da đồng niên nạp 20 cây.

HOÀNG-OANH

Tục danh chim hoàng-anh, các huyện đều có.

TẦN-CÁT-LIỄU

Tục danh chim nhồng, các miền núi đều có.

« TrướcTiếp tục »