Hình ảnh trang
PDF
ePub

như trong cửa ngõ ; Không phải viễn du mà biết cả sáu cõi (1) như trước thềm hè. Có phải đâu như : Sách Hoàn-Vũ-Kỷ (2), tự khoe là sách thái bình ; Sách Quận-Quốc Chi (3), chỉ bày những lời lợi hại ; mà thôi.

Xét lãnh-thổ Việt-Nam, ngay phần sao Ngưu-tú † a : Cổthời từ Hồng-Bàng về sau, Tây-Sơn về trước, phong cương chỉ ở phía bắc Thạch-Bi (4) ; Bản-triều khi Xuân-Kinh chưa phục, ThăngLong chưa thu, giới-hạn còn chia phía nam Hoành-lãnh. May trời mở cho thời-kỳ nhất-thống; Đất rộng ra bờ cõi bốn phương. Địa hạt phiên bình gồm trọn Lào, Qua, Xiêm, Lạp ; Vương thần quốc thổ, hơn cả Đinh, Lý, Trần, Lê. Đồ bản rạng thiên Vương-hội (5) ; Địa-chí gồm cõi Thiên-Nam (5). Biên-bức trực trường, thông nơi Vũ-Tích * 3 (13); Diện-tích rõ-rệt, vẽ ở họa-đồ.

(1) Sáu cõi, nguyên chữ lục hiệp. Nghĩa là công tây nam bắc và trên trời dưới đất.

(2) Hoàn-Vũ-Ký: tên sách của Nhạc Sử đời Tống, biên chép nhân vật, nghệ văn trong nước Trung Hoa, cũng gọi là Thái Bình-Hoàn-Vũ-Ký (1ừ-Nguyên).

(3) Quận-Quốc-Chí: tên sách của Cổ Viêm-Võ đời Thanh, biên góp lại những việc lợi hại trong các tỉnh mà trong các sách của danh nhân đã biên chép. Nguyên tên là Thiên-Hạ-Lợi Bịnh-thơ (Từ Nguyên).

(4) Thạch-Bi: bia đá. Bia này do vua Lê Thánh-Tốn đánh Chiêm thành mở đất đến Đại lãnh (giới-hạn tỉnh Phú Yên giáp tỉnh Khánh Hòa) có chạm chữ vào vách đá ở trên đỉnh núi đề phân giới-hạn (Địa-chí Phú yên).

(5) Vương-Hội Ł ý : tên sách Chu-Công nhà Chu kinh dinh đất Lạc ấp, triều các Chư Hầu, các nước Chư-hầu đến cống hiến, Chu-Công muốn lưu-truyền chế độ ấy cho đời sau, bèn làm ra thiên Vương hội (Từ Nguyên),

(6) Thiên-nam : Trời-nam, chỉ nói nước Việt-nam.

(7) Vũ tích : Dấu chân vua Hạ-Vũ. Hạ Vũ, khi bị nước lụt, đi khắp 9 châu ở Trung-Hoa, nên gọi tắt 9 châu ấy là Vũ tích.

Nhưng thời thế trước sau biển chuyển ; Địa danh thay đổi khác thường. Hoặc phân hoặc hiệp, hoặc bớt hoặc thêm ; Thì sự nghe thấy truyền thuyết khác lời ; E ở sử-biên còn thiếu sót chưa đủ. Nếu không soạn biên để bảo tồn sự thật. Dầu có sách cũ cũng mờ mịt khó tìm. Vậy muốn ngày sau biết việc đường-kim ; Thì có sách này làm bằng khảo cổ.

Trong niên-hiệu Thành-Thái (1889-1906), sau khi châm-chước theo chúng-nghị, vua bảo rằng : Cần có sách nhất-thống, để làm chứng muôn đời; Nên đặc chuẩn phải trùng-lu, cho hoàn toàn bộ sách.

Chúng tôi chức chưởng tải-bút; Trách-nhiệm tu thơ. Kính vâng Thánh ý; Gắng hết tinh thần. Phỏng theo phàm-lệ của Quang-Định (1) đã vạch bày ; Tham-khảo thể-thức trong sử-thành (2) đã ghi chép. Ngược theo dòng tìm đến nguồn ; Bỏ chỗ phiền và nơi thiếu. Gần trong các trấn Trực-kỷ (3) còn nhưng cựu, thì hiệu-chính lại cho hiệp tân thời ; Xa ngoài 2 kỳ Nam Bắc đã canh-tân, thì hiệp-biên lại cho còn cựu tích. Đầu chép thiên-văn, cuối cùng sản-vật, lớn nhỏ không sót môn nào ; Trong từ kinh-quốc, ngoài đến biên-thùy, xa gần đều tóm biên cả. Như là : Thành-trì viên hựu, núi sông, hồ đầm ; Chợ quán, quan ải, cầu cống, chùa quán. Cho đến thuế ruộng nhiều ít, số đinh đồng thưa, núi biển bằng thẳng, hiểm trở, lý lộ xa gần, và nhân tài sản-xuất, hóa-vật phát sinh. Đều biên từng điều mục ; Mong chép rõ được sự tình.

Ôi! Chữ « thống » nghĩa là tổng quát gồm đủ ; Chữ « chi » nghĩa là biên chép sự tích. Kìa như Sơn-Hải-Kinh Lê của Cảnh Thuần gen đời Tấn, chỉ nói viễn-vòng việc ngoài biên.cương ; * Quận-Huyện-Chi * H = của Cát-Phủ # # đời Đường, chưa tìm tường tận việc trong cảnh-vực. Vậy thì muốn xem phong

(I) Lê-Quang-Định phụng sắc làm bộ Hoàng-Việt Nhất Thống Địa Dư Chí năm Gia•Long thứ 5 (1806).

(2) Sử-Thành * t kho chứa sử sách.

(3) Tả trực * Ên là Quảng-nam, Quảng-ngãi ; Hữu-trực đa Ên là Quảng-trị, Quảng-bình.

[merged small][ocr errors]

tục phải đợi có thi-ca (1) ; Nói đến hải-dương phải nhọc có phủ-thể (2), hay sao ? Nên thế nào : Dở đồ ra mà biết nơi hiểm yếu ; Nhóm gạo (3) lại mà thấy rõ cơ-nghi. Trang-sức thành thiên ; Bày bố hiệp cuộc. Xóm làng liệt-biên trên giấy, không đến nơi mà thông hiều cả dân-phong ; Núi sông thuộc chảo trong lòng, ngồi yên chỗ mà hoạch trù được địa-thắng. Như bộ sách ngày nay vậy.

;

Nhưng nay Hoàng-Đế Bệ-Hạ : Hành-động tuân theo sách vở Quan-niệm chủ trọng văn-chương. Lòng thanh-tĩnh như nước không chao, như gương không bụi ; Đức anh minh mỗi ngày thêm mới, mỗi tháng thêm tươi. Nay trông thấy giảng-ốc (chỗ vua đọc sách) mới mở ; Xin phụng đệ tân-biên (sách Nhất-Thống-Chí) dâng lên. Tân biên này chia làm 17 quyển, gồm hơn 20 điều : Hồng-đồ khai-thác mấy trăm năm, công-nghiệp cao dày trông còn đồ sộ ; Toàn bức cao xanh ngàn vạn dặm, non sông gấm vóc ngắm vẫn rõ ràng. Tuy không-gian vũ trụ bao la, dẫu viết không hết lời, vẽ không hết ý ; Mà lịch-đại phong-cương chỉ rõ, như áo dính vào bầu, lưới dinh vào giường. Nay giáo-hóa đã thấm khắp cả bắc nam ; Thì đồ thơ cần lưu truyền trên lãnh-thổ. Nước lấy đó làm báu ; Sách vì vậy phải làm. Kính mong tài định sửa sang ; Phó giao ấn-loát. Đem : Trân tàng (4) nơi quán các (5) sung vào đông-bích đồ thơ (6); Ban bố (1) Kinh-lễ : Mạng Thá-sử bày thi ca các nơi đề xem

phong tục dân gian. (2) Vương-Xán : người đời Tam quốc làm bài phú (đi chơi biền) và Trương Dung người nước Tề cũng làm bài phú Thương hải (Từ nguyên).

(3) Vua Quang Võ nhà Hán sắp đem quân đi đánh Ngôi-Ngao, Mã viện đứng trước Quang.Võ lấy gạo nhóm lại từng đóng, rồi chỉ chỗ này là gò núi, chỗ này là hổ hang và chỉ những đường đi qua lại chỗ nào khúc triết bày tỏ cho Quang Võ biết (Hán thơ).

(4) Trân- Tàng ; chữ trân là báu, chữ ràng là chứa: chứa làm của báu. (5) Quán các : là chỗ tàng thơ. Việt-Nam có Quốc sử quán và nội các. • Trung Hoa đời Tống có 3 quán : Chiêu Văn có Sử Quán và Tập-Hiền-Viện, 3 các: Bí-các, Long đồ và Thiên chương.

[ocr errors]

(6) Đông-bích ; tên sao, sao này chủ việc đồ thơ ở thiên hạ, có câu : Đông-bích đồ thơ phủ : kho đồ như Đông-bích (Tấn thư).

khắp gần xa, dùng làm nam-xa phương-hướng (1). Như vậy thì : Địađạo hoàn-toàn, khác gì thơ tịch Tày-thanh (2), ngàn năm báu quí; Thiên-thơ phận định, trọn cả non sông Nam-quốc, muôn thuở vững bền. Tốt đẹp lắm thay !

Thần-đẳng phụng-biểu cẩn tấu.

Ngày 8 tháng 12 năm Duy-Tân thứ 3 (1910)
Phụng châu phê :

Y tấu, khâm thử.

Thần: Cao-Xuân-Dục
Lưu-Đức-Xung
Trần-Xán

(1) Nam xa: xe chỉ nam. Đ»i Chu, nước Việt.Thường la qua cổng hiển Trung Hoa, sứ giả quên đường về, ông Chu Công chế xe chỉ nam đề coi phương hướng mà đi (Việt-sử).

(2) Tây-Thanh :(1) câu phú của Tư.Mã Tương-Như : Tượng dư uyền đạn vu Tây-Thanh (xe voi hành động ở Tây Thanh). Chú : Tây-Thanh là nơi tiềnđường giáp liền với hậu thất, là chỗ thanh tịnh trong chái nhà. (2) Tây-Thanh là một thơ phòng riêng biệt phía nam trong cung nhà Thanh (Từ-Nguyên).

« TrướcTiếp tục »