Hình ảnh trang
PDF
ePub

phục, bèn bị giết. Đầu niên hiệu Minh-Mạng, vua tặng cho chức Binh-bộ Thượng-Thơ, thờ vào miếu Trung-tiết công thần.

TỔNG PHƯỚC KHUÔNG Ẩ tin LỄ

Nguyên người Thanh-Hóa, sau vào nhập lịch Thừa-Thiên ; ông là cha bà Thừa-Thiên Cao-Hoàng-Hậu, làm đến chức Chưởng-dinh. Cuộc binh-biến năm Giáp-Ngọ (1771), ông đem gia quyến vào GiaĐịnh. Năm Định-Dậu (1777), vua Thế-Tổ (vua Gia.Long) dấy binh ở Long-Xuyên, Phước-Khuông đem binh hội hiệp thâu phục Sài-Gòn. Năm Canh-Tỷ (1780) vua Thế.Tổ lên vương-vị, ông có công giúp đỡ, thiên chúc Ngoại-lả Chưởng-dinh kiêm Chưởng Tử-sự ; sau qua khuyến dụ Chân-Lạp, bịnh mất ở Nam Vang. Đầu niên hiệu GiaLong được tặng Thái-bảo, phong Tổng-quốc công, lập đền thờ ở Kim-Long. Niên hiệu Minh.Mạng cải phong Qui quốc công. Con ông là Phước-Lương làm đến Chưởng-trung-quân, tước Vĩnh-thuận hầu.

NGUYỄN - HỮU - THỤY – đi đ

Nguyên trước ông người Thanh-Hóa, sau dời vào Thừa-Thiên. Lúc đầu Trung-Hưng (đời vua Gia-Long), ông theo vua vào nam, làm quan Trung-quân Giám-quân Chưởng-cơ, lấy Công-chúa. Năm Nhâm-Dần (1782) người Tiêm-La đến xâm nhiễu, Thụy đem binh cản giữ, người Tiêm xin hòa rồi kéo quân về. Sau Tây-Sơn vào phá rối, Thụy cùng công-chúa đóng binh ở Lộc-Dã, đánh thất lợi, bèn qua Tiêm cầu viện, mượn đường ngang qua Chân-Lạp, bị giết. Được tặng chúc Chưởng-dinh Quận-công, thờ vào đền Hiển Trung và miếu Trung-Tiết Công-thần.

TỔNG-PHƯỚC ĐẠM # f

Người huyện Hương-Trà; khởi đầu vào Vọng-Các, mật giúp nhà vua kế hưng-phục, khi về Gia-Định thăng chức Giám-quân Cai-đội, coi việc bộ Binh, kỷ luật trong quân đều do ông nghị-định. Sau theo vua ra cứu viện Diên-Khánh, kịp khi về bị mất giữa đường, được tặng Cai-cơ. Đầu niên hiệu Minh-Mạng tặng chức Chưởng-dinh ; năm 12 (1831) phong tước Tuân-nghĩa-hầu, thờ ở Thế-miếu.

Lại có người cùng họ là Tổng-Phước-Giao, .k tầnữ có công

[merged small][merged small][ocr errors]

Vọng-Các, làm chức Tả-nội-mã Cai-cơ, thường theo chinh phạt, bịnh mất, được tặng chức Anh-liệt Tưởng-quân, được thờ vào miếu Trung Hưng Công-thần.

PHẠM-VĂN-NHÂN 范文 仁

[ocr errors]

Ông nguyên người Thanh Hóa, sau dời vào Thừa - Thiện, theo hộ giá có công ở Vọng-Các. Năm Quí - Mão (1783) hộ vệ đông - cung (Hoàng-Tử-Cảnh) qua Tây, khi về thường đi theo chinh - phạt, làm lần đến Chưởng cơ Giám Thần - sách quân, theo đại binh khắc phục Phủ-Xuân, có quân công được thăng Thầnsách-quân Quận công. Sau mất được tặng Thái-phó, thụy là TrungHiến, liệt thờ vào miếu Trung-Hung Công thần. Năm Minh-Mạng thứ 5(1824) thờ vào Thế-Miếu ; năm 12 (1831) truy phong Tiên-hung Quân-cóng 先與郡公.

MAI-ĐỨC-NGHỊ H

Người huyện Hương-Trà, có công ở Vọng Các ; khi dầu làm chức Túc-trực Cai-Đội, thiên qua Vệ-úy rồi chuyển qua Hậu đồn Chính thống, theo chinh chiến hằng có quân công, được thiên qua Thần sách Hậu-dinh Đô thống chế, bịnh mất nơi quân thứ. Nghị là người cẩn thận cung kính, theo hộ giá, tiến thoái chưa khi nào thất lễ, vua rất quí trọng. Đầu niên hiệu Gia-Long tặng chức Thiếubảo Quận-công, liệt thờ vào các đền Biểu-Trung, Hiền-Trung và miếu Trung-Hrng Công thần ; năm Minh-Mạng thứ 5 (1824) thờ vào Thể Miếu ; năm thứ 12 (1831) truy phong Vĩnh-lại-hầu * *h về.

Lại có người trong họ là Mai-Đức-Luật # ít cũng có công ở Vọng-Các, làm chúc Cai-đội, trải theo chiến trận, bịnh mất vào năm Đinh-Ty (1797), được tặng chúc Cai-cơ, liệt thờ vào miếu TrungHưng Công-thần.

NGUYỄN-CỬU-THỐNG - X

Người huyện Hương Trà, có học hạnh; triều vua Thế-Tôn (1738-1764) sung làm chúc Thị-học, dạy thế-tử Chương. Năm GiápNgọ (1774) có binh biến, ông lén vào Gia-Định chầu hầu Thế-Tổ đọc sách ; năm Mậu-Tuất ra làm Kỷ-lục Phiên.Trấn. Năm Mậu-Thân

(1788) khắc phục Gia-Định, ông lãnh chức như cũ. Khi mất được tặng Lại-bộ. Em ông là Khiêm làm đến Hộ-bộ lãnh Hộ-tào Bắc-Thành.

NGUYỄN-THÁI-NGUYÊN - Kê

Người huyện Hương Trà, cha của ông tên là Sử *, làm Hànlàm-viện, có tánh cứng thẳng, người ta gọi là Sử.Ngư. Ông Nguyên có văn học, làm người cũng cứng thẳng giống như cha ; khi đầu trung-hung, theo vua ở Vọng-Các có công, làm đến chức Thammưu, thăng Lại-bộ, rồi dời qua Lễ bộ kiêm chức Đốc-học. Khi tuổi giả hưu-tri được chức Phụng-triều thỉnh. Năm Gia-Long thứ 3 (1804) mất, được tặng chức Thái phó, thờ vào miếu Trung-Hưng Côngthần.

NGUYỄN-BẢO-TRÍ * } }

Người huyện Hương-Trà, có văn-học; khởi đầu làm Huyện-giáo. Năm Giáp-Ngọ (1774) có binh biến, Trí lén vào Gia-Định, khi vua qua Tiêm, ông không được đi theo; khi vua về Gia-Định, Trí đến yết kiến, vua trao cho chức Lại-bộ, trù hoạch binh cơ trong màn trưởng, là 1 vị văn-thần giỏi nhất trong buổi trung-hung.

Con ông là Bảo-Mưu } } cũng tùy tùng hộ giả có công, làm đến Lại-bộ. Cha con Bảo-Trí đều được liệt thờ vào đền Hiển-Trung và miếu Trung-hung Công-thần.

TRẦN-HƯNG ĐẠT TỪ Miề

Người huyện Hương-Trà, cha bà Thuận-Thiên Cao-Hoàng Hậu (vợ vua Gia-Long); có văn-học, làm quan Hàn-lâm-viện triều vua Duệ-Tôn (1765-1777). Năm Giáp Ngọ có binh biến, ông về ẩn trong làng xóm ; sau trốn vào Gia-Định, vua trao cho chức Hàn-lâm, rồi thăng Lễ-bộ Tham tri. Khi thiên hạ đại định, ông cùng Lễ-bộ Đặng Đức-Siêu nghị định điển lễ trần tấu thi hành. Sau tuổi già hưu trí rồi mất. Đầu niên hiệu Minh-Mạng tặng chức Thiếu-phó, phong tước Hà-hoa Quận công, có dựng đền ở Kim-Long phụng tự ; năm 13 (1832) gia tặng Thái-phó, phong Hoa-quốc-công. Niên hiệu Thiệu Trị gia tặng Thái-su, cải phong Thọ-quốc-cổng.

NGUYỄN ĐÌNH-BẢO K 3 t

Người huyện Hương Trà; khi đầu trung hưng theo việc nhung-ngũ làm đến chức Toàn-võ-vệ Vệ-ủy. Năm Tân-Dậu (1801), trận đánh ở cửa biển Thi.Nại, ông bị trận vong, tặng chức Chưởngcơ, thờ vào đền Bao-Trung.

VÕ-VIẾT-BẢO ÍT Đ

Nguyên là người huyện Tống-Sơn Thanh-Hóa, sau theo vào nam nhập tịch huyện Hương-Trà ; lúc đầu trung-hung, hằng theo đánh giặc, làm Cai-đội quản Pháo thủ. Đầu niên hiệu Gia-Long, thiên qua Cai-cơ vượt thăng lên Thị-nội Thống-chế. Đầu niên hiệu MinhMạng, cải thiên qua Thần-cơ-dinh Thống-chế, rồi mất.

Con ông là Tuấn và làm quan đến chức Lãnh-binh Trấn-Tây, khi cứu viện giải vây ở Sa-Tôn ) đã bị thương chết, được vua tặng chức Chưởng-vệ ; trong niên hiệu Tự Đức liệt thờ vào đền TrungNghĩa.

HOÀNG-VIẾT-TOẢN đi Đ

Người huyện Hương-Trà; lúc đầu Trung-Hưng, từng theo chinh chiến, có chiến công, làm đến chức Hậu-dinh Đô-thống-chế. Đầu niên hiệu Gia-Long, ra lãnh trấn Nghệ-An, sau triệu về lãnh chức Lưu-thủ Quảng-Đức, ít lúc lại ra trấn thủ Nghệ-An, khi mất được tặng chức Chưởng-cơ.

NGUYỄN-ĐĂNG-PHONG % k

Người huyện Hương-Trà ; lúc đầu trung-hưng ông ra tòng quân, làm Khâm-sai Thuộc-nội Cai cơ. Năm Kỷ-Vị (1799) tòng quân đi trên chiến-thuyền gặp gió chìm thuyền, chết, được vua tặng Cầmy-vệ Chưởng-vệ Cai-cơ, liệt thờ vào đền Hiển-Trung.

PHẠM-HỮU-TẢM ủ đ v

Người huyện Hương-Trà; tảnh thích-thảng không bỏ buộc; lúc đầu làm Cai cơ, bị việc miễn chức. Đầu niên hiệu Minh-Mạng được phục chức Cai-đội, thiên qua Trực-ban Phó-vệ-ủy, ra làm Trấn thủ Biên-Hòa, sau đi Nam-Kỳ bắt giặc có quân-công; được thăng lên

Chưởng-cơ, phong Tần phước-nam * i ý, sung Tham-tán đại thần ở Quân-thứ Gia-Định. Ông đào đường xá (1), đánh hạ được thành Phiên-An, khi khải hoàn làm lễ bão.tất ¥ H* (2), vua phong cho tước Bá fá *, gia hàm Thái tử Thái-bảo, tấn chức Tiền-quân Đô-thống Chưởng-phủ-sự. Năm thứ 19 (1838) được phong Tân. phước hầu, chạm tên vào bia võ-công, ra lãnh Tổng đốc Hà-Ninh Năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842), vua triệu về, đi nửa đường thì mất, được tặng Tân-phước quận công, thụy là Trung-Túc 3 .

Con ông là Hữu-Xuân, có tài lược, tập biết việc binh, khi đầu được bổ Tinh-binh Phó-vệ-ủy, tập phong tước Bả. Năm Tự Đức 16 (1863) thọ hàm Chưởng-vệ, ra lãnh Đề-đốc Sơn-Tây. Khi ấy có thổphỉ chiếm cử tỉnh Tuyên Quang tràn xuống phủ Đoan-Hùng, thế rất mạnh ; Tuyên-Quang, Hoan-Hùng, kế nhau thất-thủ. Hữu-Xuân cùng Đề-đốc Võ-Tảo đem binh viện trợ tiểu trừ, thâu phục phủ thành rồi tiến bức thành Tuyên-Quang, giặc phải tan rã, quan quân thâu phục tỉnh-thành, bắt được tướng giặc là Lê-Duy-Huân * * 12 đóng cũi đưa về kinh-sư, rồi ông trở về quân-thứ ; không bao lâu bịnh mất, được truy tặng Thống-chế.

NGUYỄN-KIM-BẢNG - Ê t

Người huyện Hương-Trà ; năm Tân-Dậu (1801) bổ vào Thị-thơviện, rồi thiên qua Tham-hiệp tỉnh Hưng-Hóa ; trong niên hiệu MinhMạng thăng Hiệp trấn Hải-Dương, sau vua triệu về thọ Hình-bộ Tảtham-tri, thăng Công-bộ Thượng-thơ, lãnh Hải-An Tồng-đốc, rồi dời qua Hà-Ninh Tổng-đốc bị việc miễn chức; sau được phục chúc Chủsự, vượt thăng Lại-bộ Thượng-thơ, sung Nam-Kỳ Kinh-lược Đại-sử, rồi mất.

HOÀNG-KIM-HOÁN * * b

Người huyện Hương-Trà, con ông xử-sĩ Hoàng. Quang ; dầu niên hiệu Gia-Long sơ-thọ Hàn-lâm-viện, chuyển qua Binh-bộ Thiêmsự, ra làm Kỷ-lục trấn Quảng-Bình và Quảng-Trị. Đầu niên hiệu

(1) Đường đi quanh quẹo như rắn bò.

(2) Chữ báo là ôm, chữ tất là vẽ, làm lễ bão tất có lẽ là ôm về vua.

« TrướcTiếp tục »