Hình ảnh trang
PDF
ePub

rộng kinh-sử, sở trường thơ quốc âm. Khi vua Thế-Tôn (Nguyễn Phúc Khoát) lên ngôi, ông vì có tài, nên bị chúng ganh ghét, ông bèn nghĩ việc vui cùng gió trăng thơ rượu ; năm Quí-Dậu (1753) mất, được tặng chức Thiếu sư Luân-quốc-công ) lớp biểu B1 a. Con trai là Dục Ł, học rộng có tài lược, triều vua Duệ-Tồn (Nguyễn-Phúc Thuần) làm chức Chưởng-cơ lãnh việc Bộ Hình, triều-đình lấy làm ỷ trọng. Quyền-thần là Trương-Phước-Loan 3k in thấy Dục là hạng tồnthần trong nước mà có thạnh-danh, muốn dẫn làm vây cánh, bèn gả con gái cho Dục, nhưng Dục cứ giữ lòng ngay thẳng không chịu dua theo. Loan ghét, khiến người cáo giác rằng Dục mưu phản, sau tra xét ra không có tội trạng, bèn bãi cho về hưu. Dục đặt tên cái nhà ở là Tĩnh-Viễn-Đường * * g, hằng ngày cùng mạckhách * * ngâm vịnh vui chơi, tuyệt nhiên không hề nói đến việc nước. Dục làm thơ hay, đánh cờ giỏi, thạo âm nhạc, người truyền rằng đờn Nam-Cầm y = (?) là của Dục chế ra.

TÔN-THẤT-XUÂN | Ề Â

Con thứ 17 của vua Thế-Tôn (Nguyễn-Phúc-Khoát). Năm Quítỵ, Tây-Sơn nỗi binh, năm Bính-Thân (1776) cùng anh là Tôn-ThấtQuyền đánh với quân Tây-Sơn ở Quảng-Nam bị thua, Quyền biệt tích, còn Xuân theo đường biển vào Gia-Định. Sau Long-Xuyên thất-thủ, Xuân cùng Mạc-Thiên-Tử qua Tiêm cầu viện, vì vua Tiêm ngờ nên bị hại; được tặng Thiếu-phó Quận-công ) { $ 2, thờ vào miếu Trung-Hưng Công-Thần.

TON-THAT-MAN X

Con thứ 5 vua Hưng-Tổ (Nguyễn-Phúc-Luân); khởi đầu theo Duệ-Tồn vào Gia-Định, thường theo chinh phạt, được trao chức Thiếu-phó Quận công. Năm Nhâm-Dần (1782), Tây-Sơn kéo binh vào, Thế-Tổ (vua Gia-Long) chạy ra đảo Phú-Quốc, Mân cùng Chu-VănTiếp chia các bộ-tướng đánh tướng Tây-Sơn là Đỗ-Bé-Trập ở NgưuChử (Bến Nghé), cả phá được quân địch, giặc chạy về Qui-Nhơn, thu phục lại đất Sài-Gòn. Năm Quí-mão, Tây-Sơn lại kéo binh vào, khi ấy Mân hiện giữ bảo Ngư-Giốc, bảo bị hãm, Mân chạy qua cầu nỗi rớt xuống nước chết, được tặng chức Cầm-y Chưởng-vệ-sự.

Năm Gia-Long thứ 4 (1805) tặng chức Thiếu-phó Quận-công, thờ theo vào Thái-miếu ; năm 13 (1814) gia tặng Thái-phó Nghị-công k 1 * A; năm Minh-Mạng thứ 5 (1824) cải thờ vào Thế-Miếu, năm 12 (1831) phong An-biên Quận-vương kia $ I.

[merged small][ocr errors]

Con thứ 6 vua Hưng-Tồ; năm Ất-vị (1775) theo vua vào GiaĐịnh, thường theo chinh phạt. Năm Quí-Mão Tây-Sơn kéo binh vào, quân ta thất lợi chạy ra đảo Phủ-Quốc, quân địch hãm lấy đảo Điệp-Thạch, bị quân địch bắt, ông chưởi mắng không chịu khuất phục, bị giết; được tặng chức Cầm-y chưởng-vệ cai-cơ. Năm GiaLong thứ 4 (1805) truy tặng Thái-bảo Quốc-công k l B 2 thụy là Trung-Mẫn về 3 ; năm thứ 5 thờ vào Thái-Miếu ; năm 13 (1814) gia tặng Tương-công * 2; năm Minh-Mạng thứ 5 (1854) cải thờ vào Thế-Miếu; năm 12 (1831) truy phong Thông-hóa Quậnvrong 通化郡王.

TÔN-THẤT-TRÁNG ¥ $ #

Con ông Chưởng-dinh Tôn-Thất-Dao ; người có dũng lược, thường theo việc chinh phạt lập nhiều chiến-công. Năm Mậu Tý (1648) vua Thái-Tồn lên ngôi, dời ông làm Thủy-dinh Tham-tưởng ở Quảng-Bình ; ông đến, rèn binh khí, huấn luyện quân sĩ, phòng bị biên-giới rất nghiêm. Năm Bính-Thân (1656) theo Nguyễn-Hữu Tấn lấy Nghệ An, cùng Nguyễn-Cửu-Kiều đem thuyền quân đánh thủy-binh họ Trịnh ở cửa biển Đơn-Nhai, cả phá được quân Trịnh; năm Binh-Ngọ (1666) thăng làm Trấn thủ cựu-dinh, liền thăng Chưởng-dinh Quận-công ty B 2.

TÔN-THẤT-VỆ HỆ H

Con ông Thái-bảo Tôn-Thất-Hà, nhờ có quân-công làm đến Chưởng-cơ. Triều vua Hy-Tồn (chúa Sãi Nguyễn-Phúc-Nguyên) năm Canh-thân thứ 7 (1620), quân Trịnh đến xâm lấn, Vệ đem binh chống cự, quân Trịnh không đến gần được. Năm Đinh-Mão 14 (1627), quân Trịnh lại đến xăm lăng, khiến tướng là Nguyễn-Khải liệt dinh trại ở phía bắc sông Nhật-Lệ ; Vệ đem bộ binh, Tôn-Thất-Trung đem thủy

binh sách-ứng. quân Trịnh xâm phạm vào trận địa của Vệ, Vệ khiến bắn đại-bác, quân Trịnh lui tránh ; Tồn-Thất-Trung đem binh thừa khi nước tràn lên bức đánh dinh của Khải, quân Trịnh mất hồn tan chạy, người chết rất nhiều. Vệ làm tướng có tài, cầm cờ tiết ra ngoài chinh phạt, lập nhiều công lao, làm quan đến chức Chưởngdinh. Em ông Vệ là Tuyên ề, trước làm Cai-cơ thăng làn đến Chưởngcơ. Triều vua Hy-Tồn năm Canh-thân thứ 7 (1620), tên Hiệp và tên Trạch phản nghịch, Tuyên quản lãnh binh tiên-phong đến đánh, bọn Hiệp thua chạy. Tuyên bắt được đem dâng về triều. Khi vua Thần Tôn nối ngôi, thăng Tuyên làm Trấn thủ Quảng-Nam ; có tên Anh * làm phản, đắp lũy Câu-Đê để cố thủ, Tuyên dẫn binh theo đường tắt thẳng đến Quảng-Nam, đốt hết trại sách, bắt Anh đưa về Kinh. Tuyên có trí dũng hơn người, liệu biết thế của quân địch để chế ngự cho hơn, 2 lần dẹp yên nội-nạn, binh-cơ thần tốc, ra đánh thì thành-công, người đều phục ông có tướng lược if th (tưởng có mưu chước).

TÔN-THẤT HUY H =

Con của Ý-Công Tôn-Thất-Dục ; có trí dũng, khéo dụng binh. Khởi đầu theo vua Duệ-Tôn vào Gia-Định, đem binh đi đánh giặc, lấy công ấy làm đến Tả-quân-dinh Thiếu-phó Quận-công. Lúc Tây-Sơn kéo binh vào, vua Thế-Tổ (vua Gia-Long) chạy ra đảo Phủ-Quốc, Huy cùng bọn Tôn-Thất-Hội, Nguyễn-Đức Xuyên đi theo hầu hạ, đường bộ thì coi việc khiêng đẩy kiệu xe, đường thủy thì coi việc buồm chèo. Năm Ất-ty (1785) hộ giá qua Tiềm-La, năm Đinh-vị (1787) hồi loan đóng quân ở Mỹ-Lung, Huy cùng tiền-quân Lê-Văn-Duân đắp bảo phòng thủ. Quan Thái-bảo Tây-Sơn là Phạm-Văn-Sâm đánh mãi không lấy được, phải lui về Ba-Lai E *. Năm Mậu Thân (1788), Huy đánh bảo Trấn-Định bắt được tướng Tây-Sơn là Chưởng-cơ Diệu, lại đem binh đến Than-Lồng * * (hay Vọng-thê tử) đánh bắt được đô-đốc Tây-Sơn là Nguyễn-Văn-Hồn, rồi ông cai quản cả tướng sĩ binh dân chư quân-vụ ở Trấn Định. Năm Nhăm-tỷ (1792), vua cử đại binh ra đánh Qui-Nhơn, thì ông cùng Võ-Tánh lưu thủ Gia-Định. Mùa đông năm ấy ông bị bịnh mà mất, được tặng chức Thái-phó. Năm Gia-Long thứ 4 (1805), được thờ vào

Thái-Miếu ; năm thứ 9 (1810), được thờ vào miếu Trung-hưng CôngThần. Năm Minh-Mạng thứ 5 (1824), cải thờ vào Thế-Miếu ; năm thủ 12 (1831), được truy phong An-Tây-Công * * 2.

TÔN-THẤT-HỘI Ệ H

Con thứ 3 ông Thôn-Thất-Thắng ; người có trí dũng, khởi đầu theo vua Thế-Tổ qua Tiềm-La ; năm Đinh-Vị (1787), theo vua về đóng binh ở Tam Phụ = ý để chống ngăn quân địch. Năm Mậu-Thân (1788) ông cùng Võ-Tảnh vây quan Đốc-chiến Tây-Sơn là Lê-Văn Minh ở Ngũ-Kiều ít đánh đốt cả trại- sách, quân địch kinh khủng tan chạy ; ông lại tiến binh bức chiến Sài-Gòn, quan Thái-bảo Tây-Sơn là Phạm Văn-Sâm chạy qua Ba-Thắc, ông quản lãnh tướng sĩ dinh Vĩnh-Trấn và điều bát các đạo binh đến đánh. Năm Kỷ-Dậu (1788) đánh phá quân địch ở Hồ-Châu * H,Phạm-Văn-Sâm đầu hàng. Năm CanhTuất (1790), thăng chức Chưởng- iền-quân-dinh kiêm lãnh tướng-sĩ 2 dinh Vĩnh-Trấn và Trấn-Định. Mùa hạ năm Quí-Sửu (1733), vua ra đánh Qui Nhân, trao cho ông chức Khâm sai bình-tây đại-tưởngquân, điều bát bộ-binh các đạo đánh Phan-Lý * =, thâu phục được Bình-Thuận, rồi đánh thẳng ra Qui-Nhân, hội hiệp với đại-binh thủyđạo Năm Giáp-Dần (1 94), quân Tây-Sơn vây thành Diên-Khánh, ông điều bát quân Tiền-thủy-dinh làm tiên-phong, địch nghe binh ông đến, bèn giải vây bỏ chạy ; ông lại tiến đánh Thi-Nại 3 }, phá nhỏ liên tiếp được các bảo Tiêu-Cơ, Mai-Hương của địch. Mùa đông năm ấy quân địch lại vây thành Diên Khánh, khiến quan Tư-lệ Lê-Trung xâm lăng Bình-Thuận, ông Hội điều bát bộ-binh đồn thủ ở Xuy-Miệt * * để chống giữ. Mùa hạ năm Ất-Mão (1795) ông tiến binh đến Lũy-Giang đánh giết binh và voi của địch rất nhiều ; Lê-Trung chạy về Diễn-Khánh hội hiệp với binh của Tổng-quản Trần-Quang-Diệu; ông Hội thừa thắng đuổi chạy đến Lạp-Quản (hay quán rạp) KY KỀ, quân địch giải vây chạy trốn; ông bèn thay cho Võ-Tánh ở trấn DiênKhánh, huấn luyện quân sĩ, vỗ về nhân dân chống ngăn quân địch và ra lịnh cấm chỉ những việc làm phi-pháp; từ ấy quân địch không dám xâm phạm, sau được triệu về. Năm Mậu-Ngọ (1798) bịnh mất, tặng chức Nguyên-phụ Công thần đặc tiến Thượng-trụ-quốc Chưởng

[ocr errors]
[ocr errors]

. Năm Gia-Long thứ 3 (1804) được thờ nào đền Hiền-Trung ; năm thứ 9 (1810), được thờ vào miếu Trung hưng công-thần. Năm Minh-Mạng thứ 5 (1824), gia tặng Thái-bảo-quận-công * H * 2, thờ vào Thế Miếu ; năm thứ 12 (1831), truy phong Lượng-giang quận công 3 ; đi 2; năm 16 (1835), thờ

vào Võ-Miếu.

Ông Hội cầm binh đánh giặc, có nhiều công đầu trong hàng trung-hưng công-thần ; tánh nghiêm kỉnh giữ lễ độ, các tướng đều kinh sợ, đảng làm dòng Tồn-Thất.

TÔN THẤT DỤ Ề tổ

lao rực rỡ, đứng trang trọng hậu, tiêu-đích trong

Con thứ 2Tôn-Thất-Thắng, anh của Tôn-Thất-Hội. Năm GiápNgọ (1774) theo vua vào Nam, làm Chưởng-tiền-quân. Năm TânSửu ra giữ Bình-Thuận, vua gia chức Trung-quân Tiết-chế điều-bát các đạo bộ-binh. Năm Nhâm Dần (1782), Tây-Sơn kéo binh vào GiaĐịnh, Dụ đem bọn Tả-chi Trần-Xuân-Trạch vào cứu viện, thâu phục Sài-Gòn, được thăng Khâm-sai ngoại tả chưởng dinh lãnh Đại tưnông. Năm Quí-Mão (1783) mất, được tặng chức Hữu-quân Chưởngphủ, liệt thờ vào đền Hiển-Trung và miếu Trung-hưng công-thần. TÔN-THẤT CỐC HỀ Ẩ

Con Tôn-Thất-Đàm, làm quan đến Nội-thủy Chưởng-cơ. Mùa hạ năm Quí-mão (1783) chống cự quân địch ở đảo Lũy-Thạch An bị địch bắt, dụ ông đầu hàng, ông mắng rằng: « Ta thà làm con quỉ ở Đông-Phổ, chẳng thèm làm người tôi Tây Sơn ». Quân địch giận giết chết. Ông được vua tặng chức Chưởng-dinh Quận-công. liệt thờ vào đền Hiển-Trung và miếu Trung hưng công thần.

TÔN-THẤT-HOẢN: Ề

Con Tôn-Thất-Huống; vào Gia-Định, thường theo chinh chiến, làm quan đến Nhuệ-oai-vệ Vệ-ủy. Năm Tân-Dậu (1801), cùng quân địch đánh ở núi Thần-Đầu bị trận chết. Năm Minh-Mạng thứ 6 (1825) tặng Thống-chế.

TON-THAT-NONG

Con Tôn-Thất-Triêm ; năm Ất-Mão (1795) vào Gia-Định, theo

« TrướcTiếp tục »