Hình ảnh trang
PDF

Bến đò Yên-Khoải ở hạ lưu sông Nhuệ-giang.

Bến đò dọc Châu-Xá ở về phía tây phủ thành Lý.Nhân, thuận dòng đến bến đò Thanh Quyết thuộc tỉnh Ninh-Bình thì lên bờ.

Bến đò dọc Thanh-Liệt ở bến Kim-Ngưu huyện Thanh-Trì. Thuận dòng đến bến làng Tương-Trúc thì lên bờ. Cứ đến mùa hạ mùa đông nước lũ đầy thì thuyền đi thông được đến bến đò làng Vạn-Điểm huyện Thượng-Phúc.

Bến đò dọc Cẩm-Cơ ở về phía đông nam huyện Thanh Trì. Từ bến sông Nhị-Hà thuận dòng đến bến đò ở các làng Hào-Châu làng Hương-Dương rồi lên đường bộ.

ĐỂ YỂN

Đè sông Nhị-Hà ở phía đông bắc tỉnh thành. Từ bắc đến nam, qua 7 huyện, dài 30.475 trượng. Đê cũ huyện Từ Liêm đã đắp 4.0.0 trượng. Năm Gia-Long đắp 100 trượng. Năm Minh-Mạng lại đắp 1.350 trượng. Đê cũ các huyện Vĩnh-Thuận đắp 945 trượng, huyện Thọ Xương đắp 270 trượng, huyện Thanh-Trì đắp 4.050 trượng, đến năm Gia-Long lại đắp 1.080 trượng. Huyện Thượng-Phúc đê cũ đắp 2.700 trượng, năm GiaLong lại đắp 675 trượng, đến năm Minh-Mạng lại đắp 540 trượng. Huyện Phú.Xuyên đê cũ đắp 3.645 trượng, năm GiaLong lại đắp 405 trượng. Huyện Nam-Xương đê cũ 8.910 trượng, nămGia-Long đắp 1.350 trượng, đến năm Minh-Mạng lại đắp 405 trượng.

Đê sông Hát-giang. Ở phía tây bắc tỉnh thành, chuyền sang đông nam qua 7 huyện, dài 31,001 trượng. Đê cũ các huyện Từ-Liêm đã đắp 2.215 trượng ; huyện Thanh-Oai đã đắp 4.725 trượng, năm Gia-Long lại đắp 270 trượng. Huyện Chương-Đức đề cũ 6.460 trượng, năm Gia-Long đắp 135t rượng, năm Minh-Mạng lại đắp 405 trượng. Huyện Sơn-Minh đê cũ 4725 trượng, năm Gia-Long lại đắp 135 trượng. Huyện Hoài An đê cũ 3.240 trượng, năm Gia-Long lại đắp 86 trượng. Huyện Kim-Bảng đê cũ đã đắp 4.725 trượng. Huyện Thanh-Liêm đê cũ 4.050 trượng.

Để sông Châu-giang ở phía bắc phủ thành Lý-Nhân, chuyển sang phía đông, qua hai bên bờ sông các huyện Kim-Bảng Duy-Tiên, Thanh-Liêm, Bình Lục đến làng Dưỡng-Mông. Mặt đông nam ngạn chuyển sang phía nam đến làng An-Bài giáp

tỉnh Nam-Định. Đê dài 5.805 trượng; Về phần đê huyện KimBảng là 540 trượng; Về huyện Duy-Tiên (hai bên bờ sông) có 2.295 trượng; Về huyện Thanh-Liêm có 1.045 trượng; Về huyện Bình-Lục 1.485 trượng. .

Khê-Ổi thủy đậu (cửa thông nước Khê-Ồi) ở làng Khè-Ôi, huyện Kim-Bảng, đặt ra từ năm Gia-Long thứ 11.

Khê-Đà thủy đậu (cửa thông nước Khê-Đà) ở về địa phận 2 làng Mạnh-Khê và Cao-Đà, làm từ năm Gia-Long thử 15.

Đỗ-Xá thủy đậu (cửa thông nước Đỗ-Xá) ở về làng Đỗ.Xá huyện.Duy-Tiên, làm từ năm Gia-Long thứ 15,

LĂNG MỘ

Lăng vua Lê-chiêu-Tồn ở làng Quỳnh-Đô, huyện ThanhTrì. Năm thứ 21 đời Minh Mạng triều Nguyễn đã sửa lăng lập bia, trong có ghi chữ « Lăng Lê.Chiêu-Tông Hoàng-đế»

Mộ tổ vua Lê-Đại-Hành ở bèn miếu làng Ninh-Thái, thuộc huyện Thanh-Liêm. Xét Sử-kỷ nhà Ngô chép: Vua Lê-ĐạiHành là người làng Bảo Đại huyện Thanh-Liêm nay gọi là Ninh-Thái. (Xét: ở núi Hoàn-Ỷ tỉnh Ninh-Bình cũng thấy tục truyền có lăng vua Lê-Đại-Hành. Còn ở làng Ninh-Thái tương truyền là mộ tổ phát tích của nhà Tiền-Lê, dễ có lẽ đúng). Lăng cũ ở làng Ninh-Thái có thứ trúc hoa người ta hay dùng làm gậy.

Mộ ông Lý-Ông Trọng ở làng Thụy-hương thuộc huyện Từ Liêm.

Đàn tế xã tắc ở về phía tây trong tỉnh thành. Đắp từ triều Minh-Mạng năm thứ 20 (1839).

Đàn Sơn-Xuyên ở phía tây ngoài tỉnh thành, đắp từ năm Tự Đức thứ 6 (1853).

Đàn Tiên-Nông ở phía tây nam trong tỉnh thành tại sở Tịch-điền, đắp từ năm Minh-Mạng thứ 20 (1839).

Văn-Miếu huyện Thọ-Xương ở về phía tây nam tỉnh thành, thời vua Lý-Thánh-Tổn lập nên và đặt tượng 4 vị phối hưởng, Lại vẽ tượng Thập-triết và tượng Thất thập nhị-hiền đề thờ. Sau miếu đặt nhà Trụ-giám để làm chỗ học trò đến học tập, đến đời nhà Trần nhà Lê cũng nhân để nguyên thế. Có bia đề tên các ông Tấn-sĩ từ các đời trước đến nay, dựng ở hai bên tả hữu. Về đầu đời Gia-Long triều Nguyễn, Văn miếu bắc thành đổi đặt bài vị, và dựng thêm các lầu Khuê-văn ở trong Nghimôn. Nay để làm Văn-miếu tỉnh này.

Miếu Hội-đồng ở thôn Khán-Xuân huyện Vĩnh Thuận về phía tây tỉnh thành, dựng từ năm Gia-Long thứ hai (1803).

Đền Khải thánh ở sau nhà Văn-miếu. Nguyên đời nhà Trần nhà Lê trước là Trụ-giám để học trò đến học tập, đến đời Gia-Long triều Nguyễn mới đồi là đền Khải thánh.

Miếu Thành-hoàng ở thôn Khán-Xuân thuộc huyện VĩnhThuận, lập từ năm Thiệu-Trị nguyên niên (1841).

Miếu vua Đinh-Tiên-Hoàng ở làng Ninh-Thái huyện Thanh Liêm. Còn ở làng Ứng Liêm huyện này, và làng Thường-Vệ

« TrướcTiếp tục »