Hình ảnh trang
PDF
ePub
[blocks in formation]

khi

Sách Ô-Châu Cận-Lục của Dương-Văn-An đời Mạc chép : (sau đây cũng đều do Ô-Châu Cận-lục chép) Ông Quận người Hải-Lăng, niên hiệu Lê Hồng-Đức (1470-1497) tòng chinh Chiêm-Thành, hãm được thành rồi, các tướng quân khác đều tranh lấy tài vật, duy có ông Quận chỉ lấy một lá cờ lớn, chứ không lấy vật chi khác. Vua Thánh-Tôn lấy làm lạ, hỏi tên họ ông, rồi lục dụng vào vệ ThanhHóa, sau thăng Đô-tong-kinh-sử Quảng-Nam.

BUI-DYC-TÀI 裴育才

Người huyện Hải-Lăng, văn học uyên-bác, năm Nhâm-Tuất niên hiệu Cảnh-Thống nhà Lê năm thứ 5 (1502) thi đậu Chính Tiếnsĩ, từ Nam-sảnh đến điện-thi, văn ứng-chế của ông đều hiệp cách, làm quan đến Hàn lâm viện. Trong niên hiệu Hồng-Đức có công ứng nghĩa, thăng Lại-bộ Tả-thị-lang, thuyên chuyển quan lại được ngay thẳng, người ta xưng là công-bình, trong niên hiệu QuangThiệu (1516-1526) được cử làm Tham-tưởng về bản-đạo kinh-lý, bị bọn gian đảng giết hại.

NGƯỜI BẢN-TRIỀU :

TRẦN ĐÌNH ÂN TRA B

Người huyện Do-Linh (trước là Vĩnh-Linh), làm quan trải trong bốn triều làm đến chức Tham-chính Chinh-đoán-sự Đôngtriều-hầu, quốc-kế, biên mưu có công tán trợ rất nhiều, gần 90 tuổi

trị sĩ, Vua Hiến-Tôn có ngự-chế thi-chương và lời tự để tiễn ông. Sau thọ chung nơi nhà vườn được tặng Đại-lý Tự-khanh. Đầu niên hiệu Minh-Mạng truy tặng : « Cảnh lượng chi-thần Hk ii ). Phải-hệ từ khi quốc triều khai-sáng cho đến sau lúc trung hưng là 11 đời mà hoạn-nghiệp nối liền xưng làm vọng-phiệt trong tỉnhhạt, nay Trần-Đình-Túc, Trần-Đình Phác tức là con cháu của ông Đình-Ân.

TRÀN-ĐÌNH-KHÁNH BR 3

Con Đông-triều-hầu Trần Đình Ân, lấy chưn Ấm-tử bỏ Chính-dinh văn-chức, ông có văn tài mẫn thiệp, khéo sự ăn nói, triều Vua Hiến-Tôn (1691 — 1725) thăng làm Cai-bộ Quảng-Nam có chính-thanh tốt, khi mất tặng Thái-thường tự khanh, đầu năm Minh Mạng truy tặng : « Trung-Hiến Chi Thần ≥ ≥ i ». Em ông là Đình-Thuận làm quan đến Cai-bộ Phó-đoán-sự.

TRÀN-ĐÌNH-HY TRIỀ

Con Trần-Đình-Khánh, làm quan đến chức Cai-bộ Bình-Thuận, triều vua Thế-Tôn (1738 – 1765) triệu về thăng Chính-dinh Cai-bộ, cùng Hình-bộ Nguyễn-Hữu Bác đi tuần xét quan lại các huyện, khi về thăng Hộ-bộ kiêm Binh-bộ rồi mất.

LÊ-KHÁNH-TRINH PHA

Người Vĩnh-Linh, đậu Cử nhân khoa Tân-Mão (1831) năm Minh-Mạng 12, làm quan đến Hàn lâm-viện Thị giảng, sung Nội-các chuyển qua Hộ-bộ Thị-lang, rồi ra làm Bổ-chính-sử Gia-Định. Niên hiệu Thiệu Trị thiên Binh-bộ Hữu-tham-tri rồi mất.

PHAN-VĂN-SONG : X l

Người Vĩnh-Linh, làm đến Vũ-lâm Vệ-ủy, năm Minh Mạng 14 (1833) đánh nghịch Khôi ở thành Phiên-An bị trận vong, tặng chức Chưởng-cơ, được thưởng 100 lượng bạc, 200 quan tiền, năm Tự-Đức 11 (1858) liệt tự vào đền Trung-Nghĩa.

ĐỖ-VĂN-HOẢNG 1 XE

Có tên nữa là Đản *, người Thuận-Xương, làm quan triều

vua Duệ-Tôn, năm Quí-Tỵ thứ 8 (1773), Nguyễn-Nhạc cướp lấy Quảng-Nam, Quảng Ngãi, vua khiến Nguyễn-Văn-Thống đem binh tiến tiễu dùng Đản làm Tán-lý, ban đêm bị quân Tây-Sơn chụp đánh, Đản cự chiến bị chết, năm Gia-Long thứ 9 (1810) liệt tự vào đền Hiển-Trung và miếu Trung-Tiết công thần.

HÒ CÔNG SIÊU đã là đô

Người Thuận-Xương, khi đầu trung hưng làm chức Khâm sai Tham-ản, năm Quí-Mão theo Tồn-thất-Dũ từ Bình-Thuận vào viện Gia-Định đánh giặc ở cầu Tham-Lương bị trận vong, được tặng chức Tham-khảm, liệt tự vào đền Hiển-Trung.

VŨ-VĂN-AN ít t

Người Thuận Xương, khi đầu trung hưng theo việc binh nhung, làm chức Cai-cơ Tiền-quân, năm Giáp-Dần (1794) tòng chinh ở cửa biển Thi-Nại bị tử trận, tặng chức Chưởng-cơ.

PHAN-VĂN-THỦY TỀ XI

Người Thuận-Xương, năm Mậu-Thân đầu khi trung-hưng (1788) ông hiệu-thuận làm chức Hồ-uy Vệ-ủy, niên hiệu Gia-Long ra làm Trấn thủ Quảng-Bình, bị việc giáng xuống Cai-cơ, năm Minh-Mạng nguyên niên (1820) lên làm Quản-đạo Quảng-Bình, liền thăng Chưởng cơ, làm Phó-đốc-trấn Thanh Hòa, rồi chuyền qua Thị-nội Long-võ-dinh Đô-thống-chế. Năm thứ 8 (1827) sung Kinhlược Nghệ-An biên-vụ, khi về lãnh Phó tổng-trấn Bắc-Thành, sau triều về thăng Hậu quân Đô-thống phủ Chưởng-phủ-sự, phong Chưởng-nghĩa-hầu. Vừa Lê-Văn-Khôi phiến biến ở Phiên-An, vua trao cho chức Thảo-nghịch Hữu-tướng quân đem binh tiến thảo, cùng địch quân giao chiến ở Biên-Long, cả phá được quân giặc, rồi bịnh mất, được tặng Thiếu-bảo, thụy là Trung-Tráng.

NGUYỄN-TĂNG-ĐỊCH T từng tiế

Người Thuận-Xương, khi đầu lưu ngụ Gia-Định, năm Tân hợi ứng thi trúng cách, bồ vào Cống-sinh-viện, thiên qua Tuyền-phong tham-luận, ra làm Cai-bộ Trấn-Định, đầu niên hiệu Gia-Long thiên

qua Hiệp-trấn Thanh-Hóa, rồi thăng Binh-bộ Hữu-tham-tri, đầu năm Minh-Mạng thự Công-bộ Thượng-thơ, khi mất truy cho thiệt thọ.

NGUYỄN-HOÀNG K Đề

Người Thuận-Xương, năm Minh Mạng thứ 7 (1826) bổ vào Anh-danh sách, làm lần lên Lãnh-binh 2 tỉnh Vĩnh-Long, An-Giang, rồi thăng Chưởng-vệ, hộ-lý Đề-đốc An-Giang, năm Thiệu-Trị thứ 5 (1845) quản binh thuyền đến Tiền-Giang dẹp thổ-phỉ được thắng lợi, lại đánh phá đồn Thiết-Thằng 4* 2 liền định được Trấn-Tây, được thăng thự Đề-đốc, bang-biện Trấn-Tây quân-vụ, lập nhiều chiến công, được ban cho kim bài : « An-tây tuấn-kiện-tướng * 75 1 l #f », triều về kinh trao chức Tiền-phong-dinh Thống-chế, phong tước Võ-xá-tử * # 7, chuyển sang Võ-lâm Hữu-dục Thống-chế. Năm Tự-Đức thứ 2 (1849) ra làm Tổng-đốc Định-biên, chạm tên vào bia võ-công. Năm thứ 3 (1850) dời qua Tổng-đốc Long-Tường, năm thứ 4 (1851) chuyển về Hữu-quân Đô-thống kiêm Quản-ấn-triện Tiền quân, năm thứ 9 (1856) mất, tặng Hữu-quận Đô-thống-phủ Đô-thống Chưởng-phủ-sự, năm 11 liệt tự vào miếu Hiền-Lương.

LÊ-MẬU-CÚC H đ

Người Thuận-Xương, làm quan lần đến Trấn-thủ Nam-Định, năm Minh-Mạng thứ 7 (1826) ngụy-cừ là Đỗ-Bá-Vành tụ đảng ở đảo nhỏ ngoài biển, Mậu-Cúc đốc binh bộ tiễu, bị trận vong được tặng Thống-chế, năm Tự-Đức thứ 11 (1858) thờ ở đầu tả-ban trong đền Trung-Nghĩa.

NGUYỄN-THỪA TỰ - K

Người Hải-Lăng (dưới đây cũng đều là người Hải-Lăng), xuất sĩ từ vua Thái-Tôn (1738-1765) làm văn-chức thiên qua chức Kỷ-lục Quảng-Nam, triệu về lãnh 2 bộ Hộ và Binh, khi mất tặng chức ThamChính. Con ông là Thừa-Diễn ky đây làm quan đến Ký.lục BìnhThuận, khi đầu trung-hưng theo vào Gia-Định, trao chức Tham-tán giữ dất Cần.Úc, sau mất. Con Thừa-Diễn là Thừa-Ước làm quan đến chức Khâm-sai Đốc-chiến, đánh giặc ở Gia-Định bị trận vong. Cha

con Thừa-Diễn đều được liệt tự vào miếu Trung-tiết Công-thần.

LÊ-ĐẠI-NGHĨA KH

Tánh người cương-trực, khi đầu trung hưng làm quan trọng Hàn-lâm-viện, trải lúc đi theo chinh phạt, đầu niên hiệu Gia-Long làm Kỷ-lục Quảng-Trị, rồi triệu về kinh lãnh chức Phụng-triều-thỉnh thường chầu nơi tiềm để có công, đầu năm Minh-Mạng làm Cần Chính-điện Học-sĩ, giáo-đạo hoàng-tử, liền gia hàm Binh-bộ Thamtri, nhưng sung chức Giáo-đạo, ở giảng đường được nhiều sự giúp ích, năm thứ 2 ông mất được cấp tuất như lệ Tham-tri, năm thứ 6 (1825) tặng Binh-bộ Tham-tri, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) tặng Lễbộ Thượng-thơ, Tự-Đức năm 11 (1858) liệt tự đền Hiền-Lương. Con ông là Hữu-Bản tánh cũng nghiêm thẳng như cha, năm Minh Mạng thứ 2 (1821) ấm-thọ bổ quan, lần thăng đến Án-Sát Định-Tường, rồi thăng Bố-chính-sử, mất tại quan sở.

NGUYỄN-CÔNG-TIỆP TẢ ĐỀ

Năm Tân-Dậu ông hưởng ứng theo vua, làm quan lần đến Hộ-bộ Thiêm-sự, chuyển qua Tham-tri, lãnh Hộ-tào Bắc thành, triệu về kinh làm Tả-tham-tri bộ Binh, bị việc giáng xuống Langtrung bộ Công, một lúc được thăng Hữu-thị-lang bộ binh, biện-lý tào binh Gia-Định, khi mất gia tặng làm Tham-tri Bộ-binh. CôngTiệp am tường điển cố, có làm quyển « Sĩ-hoạn tu-tri-lục » 1 Âm 4 truyền thế.

NGUYỄN-HỮU GIA T đi t

Con Hiệp-biện Đại-học-sĩ Nguyễn-Hữu-Thận, ông đậu cử nhân Ân-khoa Tân-Dậu, làm quan lần đến Lễ-bộ Lang-trung thăng Binhbộ Thị-lang, ra lãnh Binh-tào Bắc-thành, bị tội giáng chức, sau được thụ chức Án-sát-sử Tuyên-Quang, rồi mất. Con ông là Hữu-Huyến #k, cũng đậu Hương-tiến (cử nhân) làm lần đến Lễ-bộ Lang-trung, trong năm Tự-Đức cải thọ Thị-giảng học-sĩ, phụng sử qua Thanh, về đến Ngô-Châu bịnh mất, được tặng Thái-bộc-tự-khanh.

NGUYỄN-ĐỨC-HOẠT T T ch

Năm Minh-Mạng thứ 6 (1825), khoa Ất-Dậu đậu cử nhân, làm

73

« TrướcTiếp tục »