Hình ảnh trang
PDF
ePub

hạt. Năm thứ 6 (1853) giảm phủ Cam-Lộ, đặt Tri huyện Thành-Hóa, năm 29 (1816) nhưng cựu đặt phủ nha, kiêm lý huyện Thành-Hóa. Kế đặt huyện Hướng-Hóa sau cũng triệt bỏ. Năm Duy-Tân thứ 2 (1822) đặt trở lại. Nay hiện lãnh 2 huyện.

HUYỆN THÀNH-HÓA và 12 thể

[ocr errors]

Đông đến địa giới 2 huyện Hải-Lăng và Thuận Xương, tây đến địa giới Châu Na-Bon, nam đến địa giới châu Thượng-Kế, bắc đến huyện-giới Do-Linh.

Nguyên xưa là đất Ai-Lao, năm Minh-Mạng thứ 3 (1822) đặt làm châu Hướng-Hóa thuộc đạo Cam-Lộ. Năm 12 (1831) cải đạo CamLộ làm phủ kiêm lý châu Hướng-Hóa, năm 15 (1834) đồi làm huyện Hướng-Hóa. Năm Tự-Đức thứ 3 (1850) lại đổi làm huyện ThànhHóa (tên Thành-Hóa bắt đầu từ đây) năm thứ 5 chia đặt 1 tổng CamĐường (trích 22 xã thôn của 3 huyện Do Linh, Thuận-Xương, Hải Lăng) sáp vào huyện hạt. Năm thứ 6 (1853) giảm phủ Cam-Lộ đặt huyện-nha, năm 27 (1876) giảm viên huyện lại đặt phủ-nha kiêm lý thuộc hạt. Có 3 tổng dân kinh 75 xã thôn phường.

[merged small][ocr errors]

Huyện hạt đông giáp huyện giới Thành-Hóa, tây giáp cảnh thổ nước Xiêm, nam giáp sơn-phần phủ Thừa-Thiên, bắc giáp huyện giới Thành Hỏa.

[ocr errors]

Xưa là đất Ai-Lao, Minh-Mạng năm thứ 3 (1822) ban đầu lấy đất 4 sách (Viên-Kiệu, Tầm-Linh, Làng-Tổng, Làng Liên) đặt châu Hướng-Hóa, đặt chức Tri-châu thuộc đạo Cam-Lộ. Năm thứ 8 (1827) lấy thuế-man 4 nguồn 5 sách 6 tộc đổi làm 15 tổng thuộc châu-hạt. Sau lại đem 15 tổng hiệp lại làm 9 tổng. Năm thứ 12 (1831) cải đạo Cam-Lộ làm phủ đặt Viên phủ kiêm lý việc châu. Năm 15 (1834) cải châu Hướng-Hóa làm huyện. Năm Tự-Đức thứ 3 (1850) lại cải làm huyện Thành-Hóa, năm 29 (1876) lại đặt phủ Cam-Lộ, kế đặt huyện nha ở xã Húc-Thượng tổng Viên-Kiệu, sau dời gần Mai-Lãnh rồi lại triệt bỏ. Duy-Tân nguyên - niên tỉnh-thần dung sở xin đặt huyện lại ở chỗ nguyên-ly (địa phận xã Húc-Thượng, viên huyện

dùng người thổ-trước) đề cai trị Man-bạn, gồm 9 tầng 83 xã ấp, thuộc phủ thống hạt.

CHĀU KY-MY羈縻州

Trong niên-hiệu Thành-Thái (1889-1906) thuế-lệ 9 châu do Sứ-tòa ở Lào thân biện.

CHÂU MƯỜNG VANG LỄ My H

Cách phía tay huyện Thành-Hóa 8 ngày đàng, châu hạt liên giáp các địa giới Na-Bí, Tầm-Bồn, phủ Lạc-Biên, nguồn An-Đại.

Nguyên xưa là đất Ai-Lao. Người đầu tiên của chúng tên là Sa-Hôn ( **, con của Man-trưởng Nam-Nội Ôi-Noa ng ng đã đ 南内猥 (Nam-nội Ôi-Noa nguyên thuộc Ai-Lao), Ban đầu Man trưởng ÔiNoa sinh 4 người con, người lớn nhất là Long-Uất * *, thứ 2 là Sa-Hôn Ề k, thứ 3 là Sa-Khô #, thứ 4 là Phi-Xương H2 = khi Man-trưởng Ủi-Noa chết, anh em Long-Uất đưa ra ngoài chôn cất. Ông chồng bà cô (không rõ tên) ở nhà chiếm cử sách ấy mà tự lập làm man-trưởng, khi anh em Long-Uất trở về bị ông chồng bà cô đóng cửa không cho vô. Long-Uất đem nhau chạy qua địa giới Mường-Vang, dân Mường ấy chạy theo khá đông, bèn đánh đuổi Tùtrưởng Mường-Vang mà chiếm đất, rồi đính ước cùng nhau cầu đảo với thần ở núi Pha-Huân * * bói coi anh em người nào nên ở chỗ ấy. Sa-Hồn bói được điềm tốt, cố nhiên được ở MườngVang, còn Long-Uất thì qua Na-Bí, Sa-Khô qua Tầm-Bồn, Phì-Xương qua Thượng-Kế, anh em đều làm hùng trưởng chiếm cứ mỗi người một châu. Đất Mường-Vang từ Sa-Hon truyền đến Sa-Linh 4 15 đời, nguyên trước là Cống-man, năm Minh-Mạng thứ 8 (1827) mới liệt vào châu huyện, cải thọ cho Sa-Linh làm Thổ-tri-châu, tử tánh cho làm họ Lâm #k kì, nối đời ở đất Phủ-Cố # E. Ruộng nương có 152 xứ, dân số hơn 2000 người, khẩn trị hoang-vu, trồng tỉa ngũ-cốc, thổ-nghi lúa nếp dâu tằm nguồn lợi rất nhiều. Năm Minh-Mạng thứ 12 (1831) lệ định mỗi năm mỗi người nạp thuế-ngân 2 tiền, 3 năm một lần vào chầu (chiêm cận). Sau 8 châu kia cũng bị lưu tán lần cả, trong niên hiệu Tự-Đức chỉ còn 47 người.

CHĀU NA-BÍ那貴州

Cách phía tây huyện 5 ngày đường, ở phía bắc châu LăngThời. Châu-hạt liền giáp địa-giới Ai-Lao,Xương-Thạnh, Thượng-Kế, Mường-Vang. Đất rộng cũng bằng xứ Mường-Vang. Nguyên trước thuộc châu Sa-bồn. Người đầu tiên ở đây là Long-Uất H đại, con trưởng của Oi-Noa. Từ Long-Uất khai thác truyền đến Sa-Xiết là 15 đời, đời nào cũng đều nạp cống. Nguyên danh là Cha-Bốn vị Ản năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) đổi tên hiện-kim ; năm thứ 8 (1827) liệt vào châu huyện, cải thọ cho Sa-Xiết làm Thổ-tri-Châu, tứ tánh làm họ Thạch & k, nối đời ở bờ sông Na-bi. Ruộng nương có 140 xử, dân số hơn 2000 người. Sau bị lưu tán, trong niên hiệu Tự Đức định số giảm đến 341 người.

CHĀU THUONG-KÉ 上薊州

Cách phía tây nam huyện 7 ngày đường, ở phía nam Châu Mường-Vang. Châu-hạt giáp các địa giới Na-Bí, Làng-Thuận, MươngMẫn, nguyên thuộc châu Sa-Bồn. Người đầu tiên là Phi-Xương H %, con út của Ôi-Noa. Từ Phì-Xương truyền đến Sa-Phủ # 12 đời. Nguyên thuộc cống-man, năm Minh-Mạng thứ 8 (1.827) mới liệt vào châu huyện, cải thọ Sa Phủ làm Thổ-tri-châu, tứ tánh làm họ Kheo 4 áp, nối đời ở sòng La-Nôn a b ;z. Đất ấy gò núi cao ráo, có ruộng 140 xứ, dân số 1.500 người; sau bị lưu tán ; trong năm Tự-Đức định số chỉ còn 260 người.

CHÂU TẦM-BỒN A VÀ HỘ

Cách xiên về tây nam huyện 10 ngày đường, ở phía bắc châu Ba-Lan. Châu hạt tiếp giáp các địa-giới Khung-giang, Ba-Thắt, Ba-Lan, Mường-Vang, đất rộng cũng bằng châu Mường-Vang. Nguyên thuộc châu Tịnh-An, người đầu tiên ở xứ này là Sa-Khô, con thứ của Ôi Noa. Ban đầu Sa-Khô V # khai thác châu này ngày càng mạnh lớn, kiêm tính cả đất 4 châu : Ba-Lan, Mường-Bồng, Tá-Bang, XươngThạnh. Khiến con trưởng là Pha-Như-Khâm-Mang ky 3 châu Mường-Bỗng, con thứ Pha-Nha-Hum ** * là ở châu XươngThạnh, con thứ 3 là Sa-Khâm là * ở châu Tá-Bang, con thứ tư là Sa-Kiệu ( k ở châu Ba-Lan, còn Sa-Khô thì tự ở châu Trầm-Bồn.

[ocr errors]

Sau Sa-Khô chết, cháu ngoại là Sa-Khẩu ( n nổi theo, truyền đến SaNội là 14 đời. Nguyên danh là Trầm-Bồn 5 *, năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) cải tên hiện kim, nhưng thuộc cổng-man. Năm thứ 8 (1827) mới liệt vào châu huyện, cải thọ cho Sa-Nội thủy làm Thỏ-tri-châu, tử tánh làm họ Hướng về y nối đời ở bên song Trầm-Bồn. Ruộng đất bằng thẳng không núi rừng, ruộng nương có 42 xứ, dân số 1100 người. Thổ sản có muối, cau, voi, ngựa, trâu, bò, cá sấu, cá tràu rất nhiều. Đến sau nhân dân lưu tán chưa phục hồi.

CHÂU MƯỜNG BỎNG * * H

Cách xiên về phía tây nam huyện đi 10 ngày đường, ở phía nam châu Tầm-Bồn, Châu hạt tiếp giáp các địa-giới Khung-Giang, Ba-. Lan, Tầm-Bồn, Na-Bí, đất rộng bằng châu Tầm-Bồn. Nguyên trước là châu Tịnh-An, người đầu tiên xử này là Pha-Như-Khâm-Mang 3 t k = con trưởng của Sa-Khô. Từ Khâm-Mang truyền đến Sa-Ôn Tia 8 đời. Ban đầu thuộc cống-man đồng ngạch tịch với Tầm-Bồn, năm Minh-Mạng thứ 8 mới liệt vào châu huyện biệt ngạch 2 châu, cải thọ Sa-Ôn làm Thổ-tri-châu, tứ tánh làm họ Cốc kì ể nối đời ở đất Non-Khu * . Ruộng đất bằng thẳng không núi rừng, có ruộng nương 40 xứ, dân số 440 người. Thổ sản có muối, câu, nếp, gạo, trâu bò cũng nhiều. Đến sau Man-dân lưu tán không được như trước.

CHÂU BA LAN Et H

Cách tây nam huyện 15 ngày đường, gần Khung-Giang, tiếp giáp với Xiêm. Châu hạt giáp các địa-giới Tầm-Bồn, Mường-Bổng, NaBi, Mường-Vang. Nguyên thuộc châu Tịnh-An. Người trước tiên là SaKiệu ( Lê, con thứ 4 Sa-Khổ, từ Sa-Kiệu truyền đến Sa-Ngân phàm 7 đời, đầu thuộc cống-man, đồng ngạch tịch với Tầm-Bồn. Năm Minh-Mạng thứ 8 (1827) mới liệt vào châu huyện, cải thọ Sa-Ngân Tả ấy làm Thổ-tri-châu tử tánh làm họ Đồng 4 E, nối đời ở bên sông Trình-Thôi t . Địa thế bằng phẳng không núi rừng, có ruộng 43 xứ, dân số hơn 1000 người, thổ sản cũng như Tầm-Bồn. Sau Mandân lưu tán chưa phục hồi.

CHÂU TÁ BANG 12 ĐI H

Cách phía tây huyện 6 ngày đường, ở phía tây châu Na-Bí. Châu hạt tiếp giáp các địa-giới Mường-Vang, Xương-Thạnh, Làng-Liên, Ô-Giang. Nguyên thuộc châu Tịnh-An, người đầu tiên là Sa Khâm Tả Æ, con thứ 3 Sa-Khôi. Từ Sa Khâm truyền đến Sa-Chiêu Về B 12 13 phàm 7 đời, nguyên danh là Phủ-Băng * *. Năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) đổi tên hiện-kim, năm thứ 8 mới liệt vào châu huyện, cải thọ cho Sa-Chiêu làm Thổ-tri-châu, tứ tánh làm họ Lãnh 4 đ, nối đời ở bờ sông Tá-Bang. Đất ấy núi rừng cao ráo, có ruộng 12 xử, dân-số hơn 300 người. Sau lần phiêu lưu, năm Tự-Đức chỉ còn 39 người.

CHÂU XƯƠNG THẠNH = B H

Cách phía tây nam huyện 7 ngày đường, ở phía nam châu TáBang. Châu hạt liên tiếp các địa giới Mường-Vang, Na-Bí, Tá-Bang, Làng-Liên. Nguyên trước thuộc châu Tịnh-An, người đầu tiên là PhaNha-Hùm } ý đề con thứ 2 của Sa Khôi. Từ Pha-Nha Hùm đến Sa-Khả ề J phàm 7 đời ; nguyên trước tên là Xương-Cậm B 1, năm Minh.Mạng thứ 4 đổi làm tên hiện-kim. Năm thứ 8 liệt vào châu huyện, cải thọ cho Sa-Khả, làm Thổ-tri-Châu, tứ tánh làm họ Sơn x ki, nối đời ở bờ sông Xà Mâu * *. Đất ấy nhiều gò dốc, có ruộng 10 xử, dân số hơn 300 người. Đến sau lưu tán, trong niên hiệu Tự.Đức đã lần phục hồi chỉ có 21 người.

CHÂU LÀNG THỜI GIA

Cách phía tây huyện 8 ngày đường, ở phía đông châu ThượngKế, nguyên thuộc châu Tịnh-An. Người đầu tiên là Pha-Nha-Phó * 4 con thử của Long-Uất. Khi đầu anh em Pha-Nha-Phó tranh nhau, bèn theo người tránh ở địa-giới châu Ba-Lan. Châu-Trưởng ấy cho đất Na-Chuyên (hay Na-Đoan) ĐÃ m để ở. Pha-Nha-Phó bèn cất nhà vườn ở đó, còn những thồ-mục man-đinh đi theo thì ở nơi khe Xà-Ky vì x châu Na-Bi mà phục dịch cho Pha-Nha-Phó. Khe này cách Na-Chuyên nửa ngày đường.Từ Pha-Nha-Phó truyền đến Sa-Đôn là # phàm 6 đời. Đây nguyên trước là sách, năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) thăng làm châu, năm thứ 8 liệt vào châu huyện, cải thọ cho

« TrướcTiếp tục »