Hình ảnh trang
PDF
ePub

lấy tài văn-học chầu hầu, trước sau ở Các hơn 10 năm, hằng được vua thương yêu hậu đãi. Năm thứ 5 (1) được thọ Tuần-vũ Biên-Hòa, khi bệ-từ (2) vua ngự cho bài thơ để tỏ sự sủng-ái. Năm thứ 6 (3) bị có mục-tật. Chuẩn cho về nghỉ rồi mất.

LE-ST 黎仕

Người Phong-Lộc, ban đầu bỏ Anh-danh, làm lần lên Phó Đề đốc Biên-Hòa, được triệu về thự chức Chưởng-vệ kiêm quản Kinhtượng các vệ, vừa có việc Nghịch-Trưng phạm-khuyết (tức là loạn Đoàn-Trung), Lê-Sĩ đem binh bản bộ chận bắt đảng nghịch, có công ấy được thăng Thống-chế, phong Kiên-dũng-nam k j #, và thưởng một bài vàng ghi 2 chữ « Tưởng-trung * ở », một nhẫn vàng, một kim-tiền. Năm Tự-Đức 36 (1823) thọ chức Hữu-quân Đô-thống-phủ Đô-thống Chưởng-phủ-sự, đốc binh giữ Trấn-hải thành Thuận-An: chiến dịch cửa Thuận, Lê-Sĩ cùng Thống-chế Lê-Chuẩn, Phó-phòng Lâm-Hoằng, Chưởng-vệ Nguyễn-Trung đều tử trận, niên hiệu Phúc Kiến có gia tặng.

PHẠM-XUÂN-QUẾ * t

Người Bình-Chính đậu Phó-bảng, làm đến Hình-bộ Thị-lang. Năm Tự-Đức 14 (1861) tán tương quân-vụ Nam-Kỳ, ông đến BìnhThuận điệu lương, bịnh mất; anh ông là Xuân-Lân * * đậu Cửnhân làm đến Viên-ngoại-Lang.

NGUYỄN-ĐĂNG HÀNH F G H

Con ông Nguyễn-Đăng-Giai, thi đậu Đồng-tiến-sỹ khoa MậuThân (1848) niên hiệu Tự-Đức, làm quan đến Bố-chính-sử. Năm thứ 15 (1862) ra dẹp Bắc-phỉ bị trận vong, được gia tặng tuất.

(1 và 3) Xét năm thứ 5 và thứ 6 đã biên trên, có lẽ là niên thứ hiệu Tự-Đức, mà sách biên sót 2 chữ Tự-Đức. Vì kế theo niên-hiệu Minh-Mạng là hiệu Thiệu-Trị rồi đến hiệu Tự Đức. Mà ông Nguyễn-Cửu-Trường đậu Tiến-Sỹ năm Minh-Mạng 19, ra làm quan 2 lần ở nội các hơn 10 năm và làm Bố chính ở Hà-Nội một thời kỳ. Vậy thì thông tính từ năm Minh Mạng 19 (1839) đến năm Tự-Đức thứ 5 và thứ 6 (1853-1854) chỉ có 14, 15 năm.

(2) Bệ từ = đến trước bệ vua bái-mạng từ khứ.

BÙI-NHẬT-TIẾN ŁE ĐỀ

Người Bình-Chính, đầu bỏ Quốc-tử-giám, làm quan đến Hìnhbộ Thị-Lang, ông người liêm khiết vô tư, ai cũng khen-ngợi.

TRÀN-VĂN-HỆ BR X lê

Người Minh-Chính, đậu Tiến-sĩ năm Tự-Đức thứ 4 (1851) làm quan đến Bố-chính-sử Hà-Nội. Tánh người khiêm nhường hòa nhã, đến đâu cũng đều cần thận chức vụ, sau có lịnh xin về. Năm thứ 31 (1878) tái khởi làm Thương-biện Tỉnh vụ Quảng-Bình, rồi ông cũng xin về, mất năm Đồng-Khánh thứ 2 (1887).

LƯU-VĂN-BÌNH ỵ x 7 tự NHƯ HÀNH 3 B

Người Bố-Trạch, đậu Phó-bảng khoa Quí-Mão (1853) năm Tự Đức thứ 6. Ông học nghiệp tinh-thuần, cả đời chỉ vui cùng văn chương sách vở. Khi bỏ Tri-huyện Nghi-Xuân ông còn chăm việc giáo dục, tú sĩ trong hạt nguyện đến học cùng ông có vài trăm người. Khi thăng Tri-phủ Thuận-An làm việc bình dị cận dân, dân rất thương mến, sau phụng chỉ đồi về làm việc ở kinh, hạt dân ái mộ xin lưu lại đến hơn 6 năm, mới đồi bồ Hình-bộ Viên-ngoại-lang.

Văn-Bình tự thủ tấm lòng thanh bạch ai cũng xưng tụng, 60 tuổi cáo bịnh xin về, mất ở nhà riêng. Sau con ông làm quan quí hiển, ông được tặng Hàn-lâm-viện Thị-độc học-sĩ. Con ông là LưuĐức-Xưng đậu cử nhân hiện tại Hàn-lâm-viện Trực-học-sĩ, sung Toản-tụ, Cháu là Kiến, đậu Cử nhân làm Tri-huyện.

HỒ VIÊM ĐA X

Người Phong-phú, có dũng lực hơn người, hay giỏi võ nghệ, làm quan đến Chưởng-vệ. Năm Tự-Đức 14 (1861) phải coi các hải phòng từ Quảng-Bình ra Bắc, gặp có thủy-phỉ cướp bóc các miền duyên hải, vua xét Hồ-Viêm người cần cán, lịch luyện thủy-trình, khiến dời qua 2 hạt Nghệ-An Thanh-Hóa quản lãnh binh thuyền chạy đến Quảng-Yên tìm nghĩ cơ nghi đánh dẹp thủy-phỉ (giặc biển) khi dẹp yên, được triệu về thăng Thủy-sư đề-đốc, lần thăng Thống-chế quyền chưởng Tả-quân, kiêm quản Hậu-quân, chưa được bao lâu bịnh mất.

TRÀN-VĂN-CHUẨN BÈ X

Người Minh-Chinh, năm thứ 15 (1862) hiệu Tự-Đức đậu Tiếnsỹ làm lần đến Án-sát-sử Thanh-Hóa, sung Phó-sử qua Yên-kinh, khi về trao chức Thị-giảng học-sĩ, Tham-biện các-vụ. Năm 33 (1880) lãnh Tổng-đốc Nghệ-An xin đặt các đồn Tiên-Kỳ, Anh-Mặc thuộc sơnphòng Nghệ-An, liền thự Thượng-thơ bộ Công quản lý thương-thuyền sự-vụ, lại sung Phó khâm-sai Bắc-kỳ, sau vì việc ông tự về kinh không đợi chỉ vua, bị giáng chức, sau ông lại quyền lãnh Tổng đốc Nghệ-An, xin đặt đồn Quyết-Sơn, và đắp La-thành Nghệ-An, mất ở quan thử. Sau chuẩn thiệt-thọ Tổng-đốc, con là Văn-Cư > đậu Tú-tài bồ Trị-huyện.

HA-VAN-QUAN

Người Phong-Lộc, đậu Phó-bảng năm Tự-Đức 18 (1865), làm quan đến Thị-độc học-sĩ, sung Phó-sử qua Yên-kinh, về thăng Binhbộ hữu-thị-lang, sung chủ-khảo trường Nam-Định, lãnh Tổng đốc Hải-Yên. Ông tận tâm phủ trấp cả hạt đều yên, được vua khen ngợi. Năm thứ 36 (1883) cùng Tuần-vũ Hải-Yên là Nguyễn-Văn-Phong *, Tuần-vũ Quảng-Yên là Hoàng-Vĩ * ) bị người Pháp nghi bắt chở đi nơi khác. Năm Đồng-Khánh nguyên niên (1886) người Pháp giao lại đến kinh, chuẩn giáng Thị-lang, lãnh Lại-bộ Tả-thamtri, liền thăng thọ Hình-bộ Thượng-thơ, mất nơi quan-thự,

HIỂU-TỬ * +

HOÀNG-NHẬT-TỀ H

Người Phong-Lộc, 15 tuổi đi cùng cha ra ruộng, qua đường núi có con cọp đến chận ông cha, Tề cầm gậy thẳng đến đánh cọp, vừa khi ấy có người anh của Tề là Giám chăn trâu ở đấy liền đến cứu, cọp bèn bỏ đi, cha của Tề được bảo toàn. Việc này có tâu vua sắc cho Tể một tấm biển khắc chữ : « hiếu hạnh khả phong » ( it la) và thưởng cho áo ngân-sa ; lại thưởng cho Giám 10 lượng bạc.

LÊ THỊ NỮ + Á

Người Phong-Lộc. Thị Nữ 15 tuổi theo cha là Tảo vào núi Lệ. Ký đốn củi, có con mãnh hổ tự trong rừng đột nhiên chạy đến chụp bắt ông cha. Thị-Nữ hô hoán inh ỏi, kíp lấy cây củi đánh cọp bất cố, cọp chạy vào rừng, Thị-Nữ công cha về, người làng đến xem trước bụng và sau lưng của Tảo có những vết thương của cọp, trình quan khám nghiệm rồi tâu lên, vua sắc cho tấm biển vàng đề chữ « Hiếu hạnh khả phong» và quan địa-phương có dựng phường (1) nơi ấy.

(1) Phường (3)= kiến trúc lên một chỗ như phường-môn đề nêu hiểu hạnh của người ấy cho trong làng xóm biết.

LIÊT-NU 烈女

NGUYỄN-THỊ-CỬU VÂ

Người xã Minh-lý huyện Phong-Lộc, 24 tuổi sinh 1 đứa con gái, chồng chết, có kẻ muốn làm điều cưỡng gian, thị Cửu không chịu, nhảy vào giếng, nhờ người ở xóm cứu lên khỏi chết. Tỉnh-thần đem việc tâu lên, năm Tự Đức 18 (1865) (từ đây về sau cũng trong niên hiệu nầy) vua ban cấp tấm biển : Tiết nghĩa khả phong, và thưởng cho ngân sa.

TRẦN-THỊ-BẢN BRA Đ

Người thôn Động-Hải huyện Phong-Lộc, 23 tuổi sinh 1 trai 1 gái, chồng chết, có kẻ muốn cưới, Thị Bàn không chịu, việc có tàu lên, được thưởng bạc lượng.

TRẦN-THỊ-CÔNG TRẢI

Người Lệ-Thủy, có phụ hạnh, chồng chết hơn 20 năm, tự thề không lấy chồng khác, ở vậy dạy dỗ 2 đứa con, có gia pháp đẳng thằng, trong chốn khuê môn nghiêm chỉnh, ai cũng kỉnh mộ tiết thảo.

PHAM-THI-HUU

Người Lệ-Thủy, hơn 20 tuổi chồng chết, chỉ sinh một gái. Thị giữ sương-cư, nhiều người trong thôn muốn cưới, thị từ chối lấy sự cô quả bần hàn, chỉ an phận mà thôi, không mặt mắt nào trở lấy chồng khác, thủ tiết trọn đến khi chết.

ĐOÀN-THỊ-CHÙY H B ĐỂ

Người xã Phú-Hòa, huyện Phong-Phú, 24 tuổi sinh được 1 gái

« TrướcTiếp tục »