Hình ảnh trang
PDF
ePub

chre Luu-thù,留守,Cai-bÔ玆簿 và Ky-luc 記錄. Phú TrieuPhong chỉ thống lãnh 3 huyện: Đăng-Xương, Hải-Lăng, Minh-Linh, chuyên thuộc dinh Quảng-Trị. Lại đặt đạo Cam-Lộ H * (đời Lê về trước làm nguồn Cam-Lộ), cống-man, thuế-man đều thuộc Quảng-Trị.

Năm Gia-Long thứ 5 (1806) định làm dinh Trực-Lệ * * lệ thuộc Kinh sư. Năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) ở thượng-du đặt châu & Hướng-Hỏa thuộc đạo Cam-Lộ. Năm thứ 8 cải làm trấn Quảng Trị, bỏ 2 chữ « trực-lệ », đặt chức Trấn thủ và 7, Hiệp-trấn y đi và Tham-trấn * * ; lại đặt Cửu-Châu ở Cam-Lộ. Năm thứ 11 (1830) mới đặt chức Tri-phủ Triệu-Phong kiêm lý huyện Minh-Linh, thống hạt 2 huyện Đăng-Xương, Hải-Lăng. Năm 12 phân hạt gọi tỉnh Quảng Trị, đặt 2 ty Bố-chánh, Án-sát, đặt chức Tuần-vũ lãnh Bố-chánh (đầu đặt Bình-Trị Tổng-đốc, thì Tuần-vũ Quảng-Trị lệ thuộc, sau cải làm Trị-Bình Tuần-vũ, Quảng-Bình đặt chức Bố chánh thì lại lệ thuộc Tuần-vũ Trị-Bình), cải đạo Cam Lộ làm phủ Cam-Lộ, đặt chức Tri-phủ kiêm lý châu Hưởng-Hóa mà thống hạt cả Cửu-Châu. Năm thử 15 lại đổi tên là Bắc-trực (thông xưng cả Quảng-Trị, QuảngBình) cải châu Hướng Hóa làm huyện Hướng-Hóa. Năm 17 (1836) đặt thêm một huyện Địa-Linh * * ; phủ Triệu-Phong cải kiêm-lý huyện Đăng-Xương * % *, thống hạt 3 huyện : Minh-Linh, Địa-Linh, Hải-Lăng. Năm Tự-Đức thứ 3 (1850) cải huyện Hướng-Hóa rồi l làm huyện Thành-Hóa * 4. Năm thứ 6 (1853) tinh hiệp Quảng-Trị vào Thừa-Thiên, bỏ tỉnh đặt làm đạo, cải đặt một chức Quản-đạo, văn thơ sách tịch đều biên trùm là Thừa-Thiên-phủ, bỏ phủ Triệu-Phong và phủ Cam-Lộ, còn huyện Hải-Lăng huyện Đăng-Xương do đạo kiêmlý ; huyện Minh-Linh, Địa-Linh và Thành-Hóa Cửu-Châu Cam-Lộ đều thống về đạo mà lệ thuộc phủ Thừa-Thiên. Năm thứ 29 (1936) đồi đạo lại đặt làm tỉnh, đặt Trị-Bình Tuần-vũ (kiêm ấn triện Bốchảnh) và Án-sát-sứ, lại đặt 2 phủ Triệu-Phong và Cam-Lộ, đều kiêm lý huyện Đăng-Xương huyện Thành-Hóa. Năm Duy-Tân thứ 2 (1908) lại đặt huyện Hướng-Hóa; lãnh 2 phủ, 6 huyện, 9 châu Ky-my (niên hiệu Thành-Thái, thuế lệ ở Cửu-Châu do Sứ-tòa ở Lào thâu biện). PHỦ TRIỆU-PHONG TH

Ở phía đông bắc tỉnh 1 dặm rưởi, phía đông đến biển, lại

giáp giới huyện Phong-Điền, phía tây đến địa-giới phủ Cam-Lộ, phía nam đến địa giới sách Ba-H E & H huyện Phong-Điền, phía bắc đến địa giới huyện Lệ-Thủy tỉnh Quảng-Bình, đồng tây cách 50 dặm, nam bắc cách 127 dặm.

Nguyên xưa là đất huyện Tỷ-Cảnh quận Nhật-Nam : Thuộc đời Hán, Chiêm-Thành lấy làm Ỏ-Châu. Đời Trần đặt làm Thuận-Châu. Đời Minh-thuộc lệ nhập phủ Thuận Hóa. Đời Lê niên-hiệu QuangThuận thứ 10 (1469) đặt Thuận-Hóa Thừa-tuyên tam-ty, lãnh phủ Triệu-Phong (có tên phủ Triệu-Phong là đầu từ đây). Lệ thuộc phủ Triệu-Phong có 6 huyện: Võ-Xương * %,Hải-Lăng y Về, Kim-Trà * *, Đơn-Điền # , Tu-Vinh g *, Điện-Bàn *4. Khi đầu Bản triều đỗi Kim-Trà làm Hương-Trà * *, Đơn-Điền làm QuảngĐiền Âm, Tư-Vinh làm Phú-Vinh * *. Lại cải Điện-Bàn làm phủ, trích thuộc về Quảng-Nam. Đầu hiệu Gia-Long trích 3 huyện ; Hương-Trà, Phú-Vinh, Quảng-Điền đặt làm dinh Quảng-Đức, còn 2 huyện Hải Lăng và Đăng-Xương cùng huyện Minh-Linh phủ QuảngBình trích đặt làm dinh Quảng-Trị. Phủ Triệu-Phong chỉ lãnh 3 huyện (Hải-Lăng, Đăng-Xương, Minh-Linh) chuyên thuộc về dinh Quảng-Trị. Năm Minh-Mạng thứ 11 (1830) mới đặt chức Tri-Phủ kiêm lý huyện Minh-Linh, thống hạt 2 huyện Đăng Xương, Hải Lăng, năm 17 (1836) đặt thêm huyện Địa-Linh, cải phủ nha kiêm lý huyện Đăng-Xương còn 3 huyện Minh-Linh, Địa-Linh, Hải-Lăng do phủ thống hạt. Năm Tự-Đức thứ 6 (1853) bớt huyện Đăng-Xương nguyên thuộc phủ, do đạo kiêm lý. Năm 29 (1876) đem đạo lại làm tỉnh, lại đặt phủ-nha lãnh coi 4 huyện.

HUYỆN THUẬN XƯƠNG MÀ B

Phía đông đến huyện-giới Hải-Lăng, phía tây đến giới hạn huyện Do-Linh và huyện Thành-Hóa, phía nam đến huyện giới Thành-Hóa, phía bắc đến biển.

Huyện hạt này vốn đất Ô-Châu của Chiêm-Thành, Đời Trần thuộc Thuận-Châu. Đời Minh thuộc lệ phủ Thuận-Hóa. Đầu đời Lê làm huyện Võ-Xương * H H, thuộc phủ Triệu-Phong. Khi đầu Bảntriều cải làm huyện Đăng Xương * B H. Năm Minh-Mạng 11(1830) đặt phủ nha Triệu-Phong thì huyện này thuộc phủ thống hạt. Năm

3

thứ 17 (1836) đồi lại làm phủ kiêm lý. Nguyên lãnh 5 tổng, 133 xã thôn. Năm Tự-Đức thứ 5 (1852) chia 4 thôn phường của huyện hạt này lệ nhập huyện Thành-Hỏa. Năm thứ 6 (1853) đem huyện qui về đạo kiêm lý, có 5 tổng, 129 xã thôn. Năm thứ 29 (1876) Triệu-Phong lại đặt Tri-phủ thì huyện nầy do phủ kiêm lý, năm Kiến-Phúc nguyên niên (1884) vì tỵ hủy nên đổi tên hiện kim là Thuận-Xương.

[ocr errors]

HUYÊN HÂI-LĂNG 海陵縣
HẢI LĂNG:

phía đông nam phủ Triệu-Phong, đông đến tây cách 38 dặm, nam đến bắc cách 70 dặm, phía đông đến huyện giới Phong-Điền 24 dặm, phía tây đến địa giới phủ Triệu-Phong và phủ Cam-Lộ 14 dặm, phía nam đến sơn-động 47 dặm, phía bắc đến biển 23 dặm. Thuộc đời Hán là đất huyện Tỷ-Cảnh, Chiêm-Thành làm đất Ô-Châu. Đời Trần thuộc Thuận-Châu, đầu đời Lê đặt tên Hải-Lăng, lệ thuộc phủ Triệu-Phong, lãnh 4 tổng, 68 xã thôn. Năm Tự-Đức thứ 5 (1852) chia 3 thôn phường trong huyện hạt này cải thuộc về phủ Cam-Lộ. Thuộc hạt có 4 tổng, 65 xã phường. Năm thứ 6 giảm huyện viên do đạo kiêm lý. Năm 29 (1876) đặt lại huyện-nha thuộc phủ thống hạt.

HUYỆN VĨNH-LINH KH

Ở phía bắc phủ 55 dặm, đông tây cách nhau 36 dặm, nam bắc cách nhau 29 dặm, phía đông đến biển, phía tây đến địa giới phủ Cam-Lộ, phía nam đến huyện giới Do-Linh, phía bắc đến huyện giới Lệ-Thủy, Quảng-Bình.

Đời nhà Hán là đất quận Nhật-Nam. Chiêm Thành làm châu Ma-Linh. Triều Lý đồi làm châu Minh-Linh. Đời Minh-thuộc đổi làm châu Nam-Linh. Đời Lê đổi lại làm huyện Minh-Linh thuộc phủ TânBinh # * #. Bản triều khi đầu cũng nhơn theo đó. Đầu niên-hiệu Gia-Long chia đặt dinh hạt trích thuộc phủ Quảng-Trị, nhưng để đứng đầu là phủ Quảng-Bình, đặt tả hữu Tri-huyện, năm Minh-Mạng thứ 3 (1822) cải thuộc phủ Triệu-Phong. Năm thứ 8 (1827) cải Tả-hữu Tri-huyện và Huyện-thừa, năm 11 (1830) đem phủ-nha kiêm lý, giảm chức Tri-huyện và Huyện-thừa. Năm thứ 17 (1836) cải phủ-nha kiêm lý huyện Thuận Xương, còn Minh-Linh lại đặt Tri-huyện lãnh coi 5

tồng, 142 xã thôn. Năm ấy chia 3 tầng trong huyện hạt này cải thuộc huyện Địa-Linh tân thiết. Lại đặt thêm 2 tổng nữa hiệp với 2 tổng cũ thuộc huyện Minh-Linh, khi ấy lãnh 4 tổng, 77 xã thôn. Năm Ất-dậu hiệu Hàm Nghi (1885) tránh chữ « Minh HF » đồi làm chữ « Chiêu BB » (Minh-Linh đồi làm Chiêu-Linh). Năm Thành-Thái thứ nhất tránh chữ « Chiêu » đổi lại tên hiện nay (Vĩnh Linh), năm thứ 13 (1901) trích 8 xã phường của huyện Lệ-Thủy, Quảng-Bình, cải thuộc huyện hạt, cộng 85 xã.

[merged small][ocr errors]

Ở phía bắc phủ Triệu-Phong 25 dặm, đông tây cách nhau 37 dặm, nam bắc cách nhau 33 dặm, phía đông đến biển, phía tây đến địa giới phủ Cam-Lộ, phía nam đến huyện giới Thuận-Xương, phía bắc đến huyện giới Vĩnh-Linh.

Nguyên trước là đất 2 huyện Thuận-Xương và Vĩnh-Linh, năm Minh-Mạng 17 (1836) chia đặt (đã nói rõ về huyện Vĩnh Linh) thuộc phủ Triệu-Phong thống hạt, lãnh 4 tổng, 112 xã thôn. Năm Tự-Đức thứ 5 (1852) trích chia 22 xã thôn trong huyện hạt này cải thuộc về huyện Thành-Hóa, thuộc hạt có 4 tổng, 90 xã thôn, năm thứ 6 (1853) giảm viên huyện, do huyện Vinh-Linh kiêm nhiếp. Năm Đồng-Khánh nguyên-niên lại đặt làm huyện Do-Linh (cựu danh là Địa-Lý).

PHỦ CAM-LỘ HA

Ở phía tây nam tỉnh thành 30 dặm, đồng tây cách nhau 138 dặm, nam bắc cách nhau 229 dặm, phía đông đến địa giới 2 huyện Hải-Lăng và Thuận-Xương 20 dặm, phía tây đến địa giới châu Na-Bi ĐB # # 11 dặm, phía nam đến địa giới châu Thượng-Kế Là t 210 dặm, phía bắc đến huyện giới Do-Linh 19 dặm.

Nguyên xưa là đất Ai Lao, từ đời Lê về trước làm nguồn Cam-Lộ, có 2 châu Sa-Bồn ) và Thuận- Binh đây 7. Châu Sa- Bồn có 11 trang, 60 sách, châu Thuận Bình có 19 sách, 10 động. Trong niên hiệu Hồng-Đức (1470-1497) lệ có thể cống (cống thỏ sản). Châu Thuận Bình sau đổi làm Tuy-Bình. Khi đầu bản-triều nhơn theo đó cũng làm cống-man, bộ lạc chỗ làm châu, hoặc chỗ làm tồng, châu thì có man-sách, tổng thì có nguyên-sách. Đầu niên hiệu Gia-Long làm đạo

Cam-Lộ, đặt một quản đạo, một Hiệp-thủ đề quản lý. Thuộc đạo có đặt 1 Cai-họp, 1 Thủ-họp và 12 Lịnh sử. Người thừa biện việc châu gọi là Châu-quan, người thừa biện việc tổng gọi là Tổng-quan

=

[ocr errors]
[ocr errors]

Những Cống-man he nay có danh hiệu khảo cứu : một đạo Mường-Vang ề ạ, Châu Sa-Bồn có 2 mường : Na-Bí Độ đ Thượng Kế } * ; Châu Tịnh-An có 3 mường : Tả-Bang là Xương-Thạnh Ệ * Tầm-Bồn * ây . Và 8 sách : Ba-Lan ẹ Mường-Bổng - ** Làng-Thời Ân K, Làng Tổng Ấp 3, Làng-Liên lập Làng-Tánh #k. La-Miệt k *, A-Nhi FJ Ł. Bốn nguồn : Viên Kiệu 員嶠,Täm-Linh 尋靈,Ó-Giang 烏江, Co-Lâm 古林. Sáu tâc : Làng Hạ  T, Tầm-La  K. Làng Khống Âm . Kỳ-Tháp * *, Hương Bạn * 4, Làng-Lục  4k. Phàm cống man (1) thì xưng là MườngChâu H, Thuế-man (2) thì xưng là Bạn-châu * H. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) lấy đất 4 sách Viên Kiệm, Tầm-Linh, Làng-Tổng. Làng-Liên đặt làm châu Hướng Hóa y 4 #, đặt 1 Trị-châu dùng lưu quan (3) làm việc, thuộc đạo Cam-Lộ. Năm thứ 8 (1827) Satrưởng là k các sách đem dung sổ sách định điền xin liệt vào châu huyện, bèn lấy một đạo Mường-Vang, 7 sách ; Na-Bôn, Thượng-Kế, Tả-Bang,Xương-Thạnh,Tầm-Bồn,Ba-Lan,Mường-Bồng và 1 sách LàngThời. phàm 9 cống-man cải làm Cửu Châu (chín châu). Còn 4 nguồn 5 sách 6 tộc thuế-man cải làm 15 tổng, thuộc châu Hưởng-Hóa ở phía bắc, những đầu-mục tổng-trưởng đều bổ thọ chức Cai-tổng Sau lại hiệp làm 9 tổng, cống, thuế do nạp ở đạo Cam Lộ.

k

Năm thứ 12 (1831) đổi đạo làm phủ Cam-Lộ, đặt 1 Tri-phủ kiêm lý châu Hưởng-Hóa thống hạt 9 châu. Năm thứ 15 (1834) cải châu Hướng-Hóa làm huyện Hướng-Hóa. Năm Tự-Đức thứ 3 (1850) lại cải làm huyện Thành-Hóa, năm thứ 5 (1852) trích 32 xã thôn trong địa hạt 3 huyện : Thuận-Xương, Do-Linh và Hải-Lăng đặt làm tồng Cam-Đường * # (sau đổi làm Cam-Võ à ), thuộc về phủ

Dịch giả chú : (1) Cống-Man là mọi nạp lễ cống, chứ không có nạp thuế nhất định.

(2) Thuế-man là mọi có đóng thuế.

(3) Lưu-quan là chức quan do Chánh-phủ bỏ dụng người ở thở trước đến làm việc, không phải là thế tập.

« TrướcTiếp tục »