Hình ảnh trang
PDF
ePub

QUAN TẤN BỊ :

TRƯỞNG-THÀNH ĐỊNH-BẮC ≈ 3 t

Ở phía nam tỉnh thành huyện hạt Phong-Lộc. Bản triều đời vua Hy-Tòn năm Tân-Vị thứ 18(1631) quan Nội-tán Đảo-Duy-Từ nhằm lựa địa thế đắp lũy Trường-Dục từ núi Đâu-Mẫu xuống đến Động-Hải, cao 1 trượng 5 thước, dài hơn 3000 trượng ; trên lũy đi xe ngựa được, ngoài lũy có nước hà-cù làm ao ngăn ; trở núi cách sông hình thế hiểm yếu thiên nhiên làm chỗ ngăn chận con đường Nam Bắc không lưu thông được. Tục gọi lũy Thầy, là do ông Đào-Duy-Từ đắp ra.

Đầu niên hiệu Gia-Long nhơn nền cũ bồi đắp lại, năm Minh Mạng thứ 5 (1824) trùng tu, khởi từ cầu dài giáp chỗ xây đá thẳng đến núi Đâu-Mẫu dài 4.175 trượng lẻ, cao 7 thước 3 tấc. Năm ThiệuTrị thứ 2 (1842) đổi lại tên này. Lại có lũy cũ Nhật-Lệ từ góc phía bắc bờ hào tỉnh-thành đến chỗ đống-đá chuyển qua chỗ mỏ-dùi,liền qua tây bắc đến chỗ đống đá 1049 trượng lẻ, cao từ 6 thước đến 10 thước không hạn, đó là đắp trong năm Minh-Mạng thứ 5 (1824).

ẢI QUẢNG-BÌNH ĐI B

phía đông trong trường thành Định-Bắc : Cửa ải dài 2 trượng 1 thước, ngang 2 trượng 5 thước, đồn bảo ở ngoài ải dài 14 trượng 6 thước, cao 3 thước, xây đá năm Minh-Mạng thứ 6 (1825). Năm thủ 17 (1836) đúc 9 cái đỉnh có chạm hình ải này vào trong Nghị-Đỉnh. Năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842) vua ra bắc tuần, ngự chế thi chương khắc bia dựng đình ở ngoài cửa ải. Lại có ải nữa, tên là Võ-Thẳng * *, qui chế y như ải trên, tên cũ là Lý-Chinh-Đại-Quan-Món g * B1 19, năm Minh-Mạng thứ 7 (1826) đổi tên hiện kim, năm thứ 8 xây đả.

NGUÒN AN-DAI 安代源

Ở xã An-đại-thượng huyện Phong-Lộc. Đồng niên nạp sáp ong 30 cân, mật ong 12 ú, thiết-mộc 30 cây, thủ đồng ý 30 cái, mỗi cái đại nạp tiền 18 đồng, tốc.hương 15 cân, mỗi cân đại nạp 4 tiền, gạo nếp trắng 35 vuông, đại nạp 72 quan, tiền thuế mỗi năm đối

giá phát mãi.

HẢI TẤN NHẬT-LỆ HẢI

日麗海汎

Ở cửa Nhật-Lệ, rộng 75 trượng, khi nước

lên sâu 6 thước,

nước ròng sâu 4 thước, nhiều rạn đá, tấn thủ đặt ở địa phận thôn Động Hải.

Khi quốc-sơ ở cửa biển có dăng ngang thiết tỏa để phòng ngự binh họ Trịnh, di tích nay vẫn còn.

Đời Lê Hồng-Đức năm thứ 9 (1478) Thánh Tồn đánh Chiêm

Thành đóng quân ở cửa biển Nhật-Lệ có bài thơ rằng :

– Hiểu khóa lâu thuyền độ vĩ-lư.

曉跨 樓 船渡尾閭

Sớm cỡi lầu thuyền qua vùng biển.

Phiên phiên chinh bái trú hà cừ.

翻 翻 TE 施駐河渠

Đóng quân ở bờ sông cờ bay phất phới.

— Sa hàn địa lão tờ-dương ngạn.

沙寒地老 斜 陽 岸

Cát lạnh đất chai, khi bóng xế.

Sương lẫm phong phi túc thảo khư.

霜 凛 風 乘宿 草墟

Sương mù gió thổi gò cỏ hoang.

Long ngự cửu truyền Tiên-Lý tích.

龍 137 久 傳 僊季跡

Vua đời Lý trú-tất nơi đây còn truyền thuyết (1).

Kình phong do ký Hậu-Trần thư.

(1) Việt-sử : Vua Lý đi đánh Chiêm-Thành đến núi Ma-Cô khôn qua vịnh Hà-Não : HH , trú tất ở cửa biên Trú-Nha là ý 4 n ngày sau qua đại-tiêu trường-sa. Trú-Nha tức ngày nay ở phía nam cửa biên Nhật-Lệ, có xã Trú-Nha và xã Hải Cừ.

鯨封猶記後陳書

Dẹp tan sóng kình nơi đây, sử Hậu-Trần còn ghi (1)

Chỉ Kim Thiệu-bả tuần Nam quốc

只 今 $ 14 巡 南 國

Đến nay Thiệu-Bả đi tuần Nam-quốc (2),

Nhật lịch phong cương vạn lý dư

E L 封 JA 萬里餘
Bờ cõi mở rộng hơn muôn dặm.
Dịch : Thuyền lầu lướt sóng ra khơi.
Tinh kỳ chỉ thẳng tới nơi ngọn nguồn.
Bờ cát lạnh, buổi hoàng hôn,

Gió sương ướt đẫm cỏ còn xác xơ.
Đây đồn vua Lý ngày xưa,

Quán kinh dấu cũ Trần-thơ còn truyền.

Từ nay Thiệu-Ba tuần biên,

Giang sơn mở rộng khắp miền trời Nam,

Nguyễn-Đình-Diệm

SÁ1-NGUYÊN✯

Ở xã Hoằng-Viễn huyện Phong-Phủ, tương truyền trên nguồn này có núi Ngân-Sơn (đã nói trên), đồng niên nạp sáp ong 5 cân, vải thỏ trắng 4 đoạn, đại nạp 2 tiền 30 đồng, vải văn của mọi một bức đại nạp 3 quan tiền, dao bằng sắt 50 cái, mỗi cái đại nạp 50 đồng tiền, thuế tiền thường năm đối giả phát mại.

NGUỒN SON AN-NIỆU Đ

trang Phong-Nha huyện Bố-Trạch, phía tây nam sơn phần, có giao-địch-trường ở phía tây khe Như-Đại ở t

Xét nguồn này ở thượng lưu ngã ba sông Cổ-Bồng, mỗi

(1) Vua Giản-Định-Đế nhà Trần bắt quan nhà Minh là Phạm-Đổng-Cao
nơi đây.

(2) Câu này là vua Thánh Tôn tự sánh với ông Thiệu-Bá đời nhà Chu
đi tuần ở Nam quốc.

[ocr errors]

khi nước lụt xuống thì nước đỏ, nên tục danh là Son-Nguyên (hay Nguồn Son), Châu-Nguyên zề . Bồng-Nguyên * . Thuế nguồn đồng niên nạp trầm-hương 8 cân, mỗi cân thế nạp 10 quan tiền, sáp ong 5 cân mỗi cân thế nạp 2 quan 5 tiền, trầu nguồn 50 tay, mỗi tay thế nạp 1 tiền, dầu Cảm-Lãm 250 cân ; thuế tiền thường năm đối giả phát mãi.

HẢI TẤN LINH-GIANG : HT

Ở giới hạn 2 huyện Bố-Trạch và Bình-Chính. Cửa tấn rộng 65 trượng, khi nước lên sâu 7 thước, nước ròng sâu 5 thước, nhiều đá, khi trước gọi là cửa biển Bổ-Chính. Trong niên hiệu Minh-Mạng đồi ra tên này. Tấn-thủ đặt ở địa hạt Bố-Trạch. Hiệu Hồng-Đức đời Lê năm thứ 9 (1478) vua Thánh-Tôn đi đánh Chiêm-Thành đóng quân ở cửa biển Bố-Chính có bài thơ :

[blocks in formation]

Châu Bố-Chinh từ xưa là miền xa cách.

Tịnh hà thôn lạc mạo vi ốc.

站 河村落 茅為屋.

Nhà cửa trong làng xóm theo dọc sông đều lợp tranh.

Triệt phố quan tân trúc tác kỳ.

截浦 關津竹作旗.

Mấy chỗ quan-tân theo bến nước, tre đứng cao như cờ.

– Nữ thượng phong yêu khoa uyển vốn,

女 尚 蜂 腰誇婉 娩

Con gái ưa tục thắt lưng ong cho là tốt đẹp.

_ Dân điều quých thiệt ngữ thù-ly.

[merged small][merged small][merged small][ocr errors][merged small][merged small]

Thánh hóa lần đến miền nam để vỗ về phương xa.

Khẳng hạn phong cương ngoại đảo di.

肯限 封 疆 外島 島夷.

Đâu lấy phong cương hữu hạn mà bỏ ngoại dân xử này ?

Dịch : Núi bọc chung quanh bề mịt mờ,

Bố-Chinh ngày trước vẫn tiêu sơ.

Ven sông nhà của che tranh cỏ,
Khuất bến tre pheo dựng quạt cờ.
Gái thắt lưng ong khoe yểu điệu,
Dàn hòa lưỡi quịch nói liu lo.
Trời nam đã rưới ơn mưa móc,

[blocks in formation]

Từ tỉnh thành đến đây đi đường bộ một ngày, từ đây đến cửa

biển Ròn đi theo hải trình nửa ngày, còn đi bộ thì 2 canh.

CỬA TẤN AN-NIỆU ĐỤA TR

Ở đất huyện Bố-Trạch, cửa tấn

được, nên không đặt tấn-thủ.

安裊海汎

cạn hẹp, thuyền lớn không đi

HẢI TẤN LÝ-HÒA B triệt

Ở đất huyện Bố-Trạch ; cửa tấn cạn hẹp thuyền lớn đi không được, xưa có tấn-thủ, nay bỏ.

ẢI HOÀNH-SƠN "BỊ

Ở phía bắc huyện Bình-Chinh: ải này xây đá dài 11 trượng 8 thước, cao 10 thước, ở giữa là cửa ải, 2 bên tả hữu xây tường dài 75 trượng, cao 4 thước, quanh theo tả hữu và phía sau bức tường dài 12 trượng 2 thước. Năm Minh-Mạng 14 (1833) xây đả, năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842) vua ra bắc tuần, ngự-chế thi chương chạm bia dựng trên núi.

HẢI TẤN RÒN HA

Ở huyện Bình-Chinh ; cửa biển rộng 20 trượng, khi nước lên sâu 5 thước, nước xuống sâu 3 thước, nhiều rạn đá. Cửa biển chật

« TrướcTiếp tục »