Hình ảnh trang
PDF
ePub

Thổ nhơn bèn lập đền ở chân núi đề thờ, gọi là Sa-Đéc (tức là Thủy-Thần).

[30a] NHÂN-VẬT

Ông Nguyễn-Văn-Nhơn : Người huyện Vĩnh-An. Khi đầu trung hưng được thọ chức Cai-đội theo Tồn thất-Hội đánh giặc, thăng Thuộc-Nội Cai-Cơ, đồn trú Long-Xuyên chận ngăn đường bại. tầu của tướng Tây-Sơn là Phạm-Văn-Sâm (hay Tham), được thăng Trung Quân Thủy-Dinh Vệ.Ủy, rồi dời qua chức Lưu. Thủ dinh Trấn Biên kiêm lãnh Trung Quân Phỏ-trung Thủy. dinh hành Phú-Yên Lưu-Thủ. Ông đắp bảo La-Hai, dựng kho chứa lúa đề cho đủ quân nhu, cùng Nguyễn.Văn-Trương đánh giặc ở cửa biển An.Dụ, thừa thắng đánh thẳng đến Đại-Cô-Lũy (Quảng-Ngãi). Sau làm Lưu Thủ Gia-Định mộ linh đề chờ tấn phát, tạo thuyền để vận tải quân lương, mở ruộng nương khuyến nông tang, được thăng Chưởng-Chấn Vũ Quân tước Quận Công. [30b] Khi ấy Nguyễn-Văn-Nhơn tạo thêm chiếnthuyền, lại xin thân minh giáo-điều, và tha bỏ thuế khê đầm, rồi được triệu về kinh khảo sát điều lệ. Kế thay cho ông Nguyễn-Văn-Trương giữ chức Tổng-Trấn Gia-Định kiêm lãnh 2 trấn Bình-Thuận và Hà-Tiên. Người Xiêm xâm lấn Cao-Miền ông đem binh đến biên cảnh, người Xiêm run sợ không dám động. Năm Gia Long thứ 15 (1816) được điều-chương HữuQuân kiêm-thự Trung-Quân-Ấn. Năm thứ 18 (1819) lại lãnh chức Tổng trấn Gia-Định. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1826) về kinh cung chức Tổng-Tài Sử Quán. Năm ấy Đại.Giá Bắc-phần ông sung chức lưu-kinh đại-thần rồi mất. Ông thọ 70 tuổi, tặng chức Thái Bảo, tùng tự nơi Thế.Miếu, lại được liệt tự vào miếu Trung-Hưng Công-Thần, cấp tự-điền. Năm thử 12 (1831) truy tặng Thái Bảo, phong Kinh-Môn Quận-Công.

[ocr errors]

Tổng-Phước-Thiêm: Có tên nữa là Phước Thiện, tiên nhân ở Tống-Sơn, lưu ngụ tỉnh An-Giang, làm quan [31a] triều vua Duệ-Tôn làm đến Chưởng-Cơ. Năm Bính thân cùng Tống. Phước Hòa giữ Long-Hồ. Năm Đinh-tị Tây-Sơn vào đánh, ông lui về Ba-Việt bị bại trận trốn thoát. Mùa đông năm ấy theo vua Thế-Tổ Cao-Hoàng-Đế cử binh ở Long-xuyên. Năm Canh-tỷ(1780) vua chánh đế vị, lấy ông có công dục-đái, thăng chức Nội Tả Chưởng-Cơ Quận-Công. Năm Tân-sửu (1781), Ngoại-Hữu-Xạ ĐỗThanh-Nhơn mưu làm phi pháp, ông Thiêm xin vua giết đi, Năm Nhâm-dần (1782) quân giặc xâm nhiễu, bị thất lợi về chiến dịch ngư-châu (thuyền đánh cả), vua chạy qua Tam-Phụ, ông Thiêm lạc ở sau, bị cừu đảng Đông-Sơn giết. cừu-đảng

Nguyễn-Văn-Bể : Người huyện Vĩnh An, có công ở Vọng. Các, làm quan đến Tông-Nhung Cai-Cơ; vua thường sai đi qua Xiêm, kịp khi về đem binh tùng chính, có công trạng lớn. Khi mất tặng chức Chưởng Cơ, liệt tự vào 2 miếu Hiền-Trung và Trung-Hưng.

[31b] Hoàng-Phước Bửu: Người huyện Tân Thành, theo vua sang Vọng-Các, sau làm đến chức Trung-đồn Uy-vũ Vệ-ủy. Năm Tân-dậu (1801), tùng chinh ở Qui-Nhơn bị tử trận ở Thạch-Cốc, truy tặng chức Chưởng-Cơ. Năm -Gia-Long thứ 3 (1804) liệt tự vào miếu Chiêu-Trung, Hiền-Trung và Bao-Trung. Năm thứ 9 (1810) liệt tự vào miếu Trung-Hưng Công-Thần.

Nguyễn-Văn-Trọng : Người huyện An.Xuyên, khi mới đầu quân làm chức Khâm-Sai Cai.Cơ, theo Tổng.Nhung Nguyễn. Thoan (hay Suyền) và Tiên-Phong Nguyễn-Văn-Thành điều khiển đánh giặc, lần thọ chức Tiên-Phong-Dinh Lượng-Vũ-Vệ Chinh. Vệ. Năm Canh-thân (1800) tùng chinh ở Qui Nhơn bị tử trận ở

Tự Sơn. Năm Gia-Long thứ 2 (1803) [32a] tặng Chưởng-Cơ, liệttự miếu Bao-Trung. Năm thứ 9 (1810) liệt tự vào miếu Trung Hưng Công-Thần.

Đoàn Văn-Trường: Người huyện Đông-Xuyền, năm Đinh. vị (1787) đầu quân, đi theo chinh chiến lâu ngày rõ có công lao. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) thăng Trị Bình Tổng Đốc, năm 13 đổi làm Thanh.Hóa Tổng-Đốc, năm 14 thăng thự Tả-Quân Đô.Thống Chưởng-Phủ-Sự, nhưng lãnh Hà-Ninh TổngĐốc, liền gia hàm Thái Tử Thiếu-Bảo. Khi mất tặng Tả-Quận Đô-Thống-Phủ Chưởng phủ-sự.

Nguyễn-Văn-Định : Người An-Xuyên có công ở Vọng-Các, làm quan đến Cai.Cơ suất-tả binh-đội. Năm Đinh-vị (1787) tùng chinh ở Quảng-Nam bị trận vong, tặng chức Chưởng-Cơ, liệt tự vào miếu Hiền-Trung và miếu Trung-Hưng.

Nguyễn-Văn-Tuyên : Người huyện Vĩnh An, khi đầu trung hưng ông tùng chính có nhiều chiến công, [32b] làm đến Chấn Võ Quân Hữu-Bảo Vệ-Ủy. Khi Gia-Long trung hưng ông theo ông Lê-Văn. Duyệt bình ác-man ở Quảng-Ngãi, đốc suất binh dân đào sông Vĩnh-Tế, rồi làm Trấn-Thủ ở Định-Tường và Vĩnh Thanh, lại được án thủ Châu-Đốc đeo quốc.ấn bảo hộ Cao-Man.

Nguyễn-Văn-Yên: Người An-Xuyên, khi đầu trung hưng đi theo chiến trận làm quan đến Lượng-Võ-Vệ Vệ-Ủy. Năm Canhthân (1800) tùng chinh ở Qui-Nhơn bị trận vong ở Thị-Dã, liệt tự vào miếu Hiền-Trung và miếu Trung Hưng.

LIỆT-NỮ

Dương-Thị-U : Người huyện Đông-Xuyên, vợ Nguyễn-Văn. Nhị, nhà nghèo, chồng bịnh chết, người chủ nợ là Trương Thời

thấy thị có nhan sắc hằng muốn làm việc cường bạo hiếp hãm, nhưng thị cố ý không đồi tiết, sau bị tên Thời ám hại. Năm Minh Mạnh thử 10(1829) được tinh thưởng.

[33a] Nguyễn-Thị-Dung : Người huyện An-Xuyên, nhà giàu. Năm Thiệu-Trị nguyên niên (1841) nhơn có quân-vụ ở biên cảnh thị xuất lúa quyên trợ, vua sắc tặng cho cái biển «Lạc quyên nghĩa phụ).

[blocks in formation]
[blocks in formation]
« TrướcTiếp tục »