Hình ảnh trang
PDF
ePub

chức Tri-huyện, do phủ Hà-Hoa thống hạt. Năm Minh Mạng 21 (r84o) lấy 2 huyện Cam-Muôn và Cam-Cát ở phủ Trấn-Định lệ thuộc vào phủ Đức-Thọ.

cho

(Xét 2 huyện này vốn là đất của nước Vạn Tượng, vì bị nước Tiêm-La đánh mới xin nội phụ vào nước ta, nên mới đặt làm huyện, và đặt Thô-quan cai trị, nhưng rồi lại bị quân Mán Lào đến Xâm lược, thồ-dân ở đấy phải tản sang ngụ ở huyện Hương Sơn, rồi đem hai huyện này đồi cho thuộc vào phủ Đức-Thọ).

Năm đầu Thiệu-Trị (1841), lại đồi tên phủ Hà-Hoa gọi là phủ HàThanh Huyện Hoa-Xuyên gọi là Cầm-Xuyên,huyện Kỳ-Hoa gọi là KỳAnh, và lại đem 3 phủ Trấn-Định, Trấn-Tĩnh, Trấn-Biên cùng thuộc vào đây. Năm Tự-Đức thứ 6 (853) lại đồi làm Đạo. gồm cả phủ Đức-Thọ và 3 Thổ phủ vào tỉnh Nghệ-An. Thăng phủ Hà-Thanh àm đạo Hà-Tĩnh, đặt : Quản-đạo, giấy tờ số sách việc quan đều đứng tên là tỉnh Nghệ-An. Năm Tự-Đức thứ 16 (1863), đặt thêm chức Phó quản đạo. Đến năm Tự-Đức thứ 21 (1868), lại trích đất huyện Hương-Sơn thuộc phủ Đức-Thọ ra, đặt thêm huyện HươngKhê, và đặt chức Trí huyện cho thuộc vào phủ Đức-Thọ. Năm Tự Đức 29 (1876), lại đặt làm Tỉnh, trích phủ Đức-Thọ ra cho thuộc về tỉnh, và đặt chức Tri-phủ ở phủ Hà-Thanh, lại đặt chức Tuầnphủ, chức Án-sát như trước. Sau lại bớt chức Tuần-phủ, đặt chức Bố chính. Niên hiệu Đồng Khánh, năm Ất-Dậu (1885) đặt i Tuầnphủ : Bố-chính, r An-sát, thống hạt như cũ, lĩnh 2 phủ 8 huyện.

I

PHỦ HÀ-THANH.

Phủ này phía nam cách tỉnh 82 dặm. Đông - tây cách nhau 57 dặm, nam-bắc cách nhau 220 dặm. Phía đông đến bề 17 dặm; tây đến huyện Hương-Khê 40 dặm ; nam đến địa giới huyện Bình Chánh thuộc tỉnh Quảng-Bình 48 dặm, bắc đến địa giới huyện Can-Lộc 172 dặm. Hồi mới thuộc nhà Đường, thì là châu Minh và châu Ứng, sau tháp nhập vào huyện Việt-Thường; hồi thuộc nhà Minh thì

cũng nhân đó cho kiêm lý huyện Kỳ-Anh và thống hạt huyện Thạch Hà. Năm Minh-Mạng thứ 18(1837), trích huyện Kỳ-Anh đặt thêm ra huyện Hoa-Xuyên cũng thuộc phủ thống hạt, năm đầu Thiệu Trị (1841) đôi tên là phủ Hà-Thanh như ngày nay. Năm Tự-Đức thứ 6 (1853) thăng làm đạo do đạo kiêm lý. Đến năm Tự Đức thứ 29 (1876) lại phân hạt ra, và lại đặt chức Tri-phủ, kiêm lý huyện Kỳ-Anh, thống hạt huyện Thạch-Hà, huyện Cầm-Xuyên, lĩnh 3 huyện.

HUYỆN KỲ-ANH.

Đông-tây cách nhau 57 dặm, nam-bắc cách nhau 8r dặm. Phía đông đến bè 17 dặm; tây đến địa-giới huyện Hương-Khê 40 dặm; nam đến quan-ải tỉnh Quảng-Bình 49 dặm ; bắc đến địa giới huyện Cầm-Xuyên 32 dặm. Về đời nhà Trần là huyện Hà-Hoa (Năm LongKhánh thứ 3 đời Trần (1375) đào cảng đến cửa bề Hà-Hoa, nên đặt huyện Hà-Hoa từ đấy). Hồi thuộc nhà Minh vẫn đề nguyên cũ. Đến đời nhà Lê thì gồm cả huyện Kỳ-La vào làm huyện Kỳ-Hoa Triều Nguyễn cũng vẫn đề thẻ. Năm Minh-Mạng I7 (1836) mới trích ra 4 tầng : Lạc-Xuyên, Vân-Tản, Thồ-Ngoã, Mỹ-Duệ mà đặt ra huyện Cầm-Xuyên. Năm đầu Thiệu-Trị (1841) mới đồi là huyện KỳAnh, do phủ kiêm lý. Đến năm Tự-Đức thứ 6 (1853), đặt chức trihuyện, do Đạo thống hạt. Năm Tự-Đức thứ 29 (1876) lại bỏ chức Tri-Huyện đề phủ kiêm lý. Lĩnh 4 tổng, có I05 xã, thôn, phường.

HUYỆN CẨM-XUYÊN.

Phía bắc cách phủ 69 dặm. Từ đông sang tây 68 dặm. từ nam đến bắc 44 dặm. Phía dông đến bề 13 dặm ; tây đến Núi Chủ-Trương giáp giới huyện Hương-Khê 55 dặm ; nam đến sống Lạc-Giang giáp giới huyện Kỳ-Anh 27 dặm ; bắc đến địa-giới huyện Thạch-Hà 17 dặm. Thủa xưa nguyên là đất huyện Hà-Hoa, hồi thuộc nhà Minh là

Triều Nguyễn, năm Minh-Mạng I7 (1836) mới trích ra cho thuộc vào phủ hạt. Đến đời Thiệu-Trị đồi là huyện Cầm-Xuyên. Năm Tự Đức thứ 4, lại bỏ chức Tri-huyện để phủ kiêm lý. Năm Tự Đức thứ 6 (-853) lại thuộc đạo kiêm lý. Đến năm Tự-Đức 29 (1876) lại đề do phủ kiêm lý. Đời Đồng-Khánh năm Ất - Dậu (1885) lại đặt chức Tri-huyện, thuộc phủ quản hạt, lĩnh 4 tổng, cộng 9% xã, thôn phường.

HUYỆN THẠCH-HÀ.

Phía nam cách tỉnh i dặm. Từ đông sang tây 55 dặm; từ nam đến bắc 37 dặm. Phía đông đến bề 18 dặm; tây đến địa giới huyện Hương-Khê 37 dặm; nam đến địa giới huyện Cầm-Xuyên 5 dặm bắc đến địa-giới huyện Can-Lộc 32 dặm. Đời Tiền-Lê gọi là châu Thạch-Hà. Triều Lý đồi là huyện. Đến đời nhà Trần gọi là châu Nhật-Nam. Hồi thuộc nhà Minh gọi là huyện Bàn-Thạch và huyện Hà-Hoàng (thuộc châu Nam-Tĩnh), sau lại gồm cả huyện Hà Hoàng vào châu này. Đến đời nhà Lê lại gọi là huyện Thạch-Hà, triều Nguyễn cũng nhân đề thể mà cho thống hạt vào phủ Hà-Thanh. Năm Tự-Đức thứ 6 (1853) bỏ chức Tri-huyện, đề cho đạo kiêm lý, Đến năm Tự-Đức 29 (1876) lại đặt chức Tri-huyện do phủ quản hạt. Huyện này có 7 tồng, cộng 65 xã, thôn, trang.

PHỦ ĐỨC-THỌ.

Phía tây-bắc cách tỉnh 70 dặm. Từ đông sang tây 163 dặm ; từ nam đến bắc 50 dặm. Phía đông đến bề 63 dặm; tây đến núi Khai. Trương roo dặm ; nam đến địa-giới huyện Thạch-Hà 39 dặm ; bắc đến địa-giới huyện Thanh-Chương II dặm. Hồi thuộc Ngô là đất quận Cửu-Đức; thuộc Lương là châu Nam-Đức, thuộc đường là đất quận Nhật Nam quận Đường-Lâm. Đến nhà Lê đồi là phủ ĐứcQuang. Nhà Nguyễn buổi đầu niên hiệu Gia-Long vẫn đề tên ấy,

Xuân, Can-Lộc, Thanh-Chương, Chân-Lộc. Năm Minh - Mạng thứ 3 (1822) đồi tên mới như ngày nay. Đến năm Minh-Mạng thứ 7 (r826) lại đem huyện Thanh-Chương, huyện Chân-Lộc cho thuộc vào phủ Anh-Sơn. Năm Minh-Mạng 21 (184o) lại đem 2 Thổ-huyện ở phủ Trấn-Định là huyện Cam-Môn và huyện Cam - Cát cho thuộc vào phủ Đức-Thọ. Năm Tự-Đức thứ 21 (1868), lại chia huyện Hương-Sơn ra, đặt thêm huyện Hương-Khê. Năm Tự Đức 29 (1876), phân hạt cho lệ thuộc vào kiêm lý huyện La-Sơn ngày nay, thống hạt các huyện : Hương-Sơn, Hương-Khê, Nghi - Xuân, Can-Lộc và lĩnh 5 huyện.

HUYỆN LA-SƠN

II

Đông-tây cách nhau 19 dặm, nam - bắc cách nhau 22 dặm. Phía đông đến địa giời huyện Nghi - Xuân 17 dặm. Phía tây đến địa giới huyện Hương Sơn 2 dặm ; nam đến địa giới huyện Can-Lộc II dặm; bắc đến địa giới huyện Thanh - Chương dặm. Hồi thuộc nhà Minh gọi là Chi - La, đời nhà Lê gọi là La-Giang, sau mới đổi là La-Sơn ngày nay. Đến triều Nguyễn cũng theo tên cũ đề thuộc phủ Kiêm lý. Huyện này có 5 tồng. Cộng 52 xã, thôn, phường.

HUYỆN CAN-LỘC

Phía đông-nam cách phủ 20 dặm. Từ đông sang tây 34 dặm, từ nam đến bắc 15 dặm. Phía đông đến bè 27 dặm; tây đến địa giới huyện La Sơn 9 dặm; nam đến địa giới huyện Thạch-Hà n dặm ; bắc đến địa giới huyện Nghi-Xuân 14 dặm. Đời xưa gọi là huyện Hà-Hoàng, thuộc Minh gọi là huyện Phi-Lộc. Năm QuangThuận nhà Lê (Lê Thánh - Tôn, 146o-1469) mới đồi là huyện CanLộc ngày nay. Triều Nguyễn vẫn theo tên này, thuộc phủ thống hạt. Hiện lĩnh 7 tổng, gồm roi xã, thôn, phường.

HUYỆN NGHI-XUÂN

Cách phủ 46 dặm về phía đông. Đông sang tây cách 25 dặm,

địa giới huyện La-Sơn r8 dặm; nạm đến địa giới huyện Can-Lộc 14 dặm ; bắc đến địa giới huyện Nghi-Lộc : dặm. Đời xưa là đất huyện Hàm-Hoan, thuộc Minh gọi là huyện Nha-Nghi. Xét hồi thuộc nhà Minh, năm Vĩnh-Lạc thứ 15, có đặt Ty Tuần-kiềm ở cửa bề Đan-Thai thuộc huyện Nha-Nghi. Đan-Thai tức là tấn cửa Hội ngày nay. Lại xét huyện Nghi-Xuân hồi xưa hợp với huyện Chân-Lộc là một, gọi là huyện Nghi - Chân, đến đời nhà Lê mới trích ra đặt là huyện Nghi-Xuân như ngày nay. Triều Nguyễn cũng đề như trước. Huyện này có 5 tồng, cộng 40 xã, thôn, phường.

HUYỆN HƯƠNG SƠN

Cách phủ 4 dặm về phía tây. Đông sang tây cách nhau 98 dặm ; nam sang bắc cách nhau 47 dặm. Phía đông đến địa giới huyện La-Sơn I dặm; tây đến núi Khai-Trưởng 97 dặm ; nam đến địa-giới huyện Thạch Hà 29 dặm ; bắc đến giới huyện ThanhChương 18 dặm. Thuộc Đường là châu Lộc-Phúc, nhà Lý gọi là Đỗ-Gia-Hương. Hồi thuộc Minh là đất huyện Cô-Đỗ và huyện Thồ Hoàng. Đến đời nhà Lê gọi là Đỗ.Gia. Năm Quang-Thuận (niên hiệu vua Lê Thánh-Tôn 146o-1469) đồi là huyện Hương-Sơn như ngày nay. Triều Nguyễn cũng đề như cũ. Năm Minh-Mạng ao (1839) mới đồi tấn Quy-Hợp thuộc phủ Trấn-Định làm tồng Quy-Hợp, đề thuộc vào huyện này. Năm Tự-Đức 21 (1868) lại trích lấy các tồng Quy-Hợp, Châu Lễ, Phương-Điền, Phúc-Lộc, Hương-Khê, đặt ra huyện Hương-Khê. Huyện Hương-Sơn này có 7 tồng, cộng 50 xã, thôn, phường.

HUYỆN HƯƠNG-KHÊ

Cách phủ 60 dặm. Từ đông sang tây 250 dặm, từ nam đến bắc I20 dặm. Phía đông đến địa-giới huyện Thạch-Hà 50 dặm; tây giáp Mán Mèo 200 dặm; nam giáp địa - giới tỉnh Quảng-Bình 8o dặm; bắc giáp địa-giới huyện Hương-Sơn 40 dặm. Hồi thuộc Minh gọi là huyện Thổ-Hoàng sau cho hợp vào huyện HươngSơn. Đến năm Tự Đức 21 (1868) trích ra cho thuộc vào phủ thống-hạt. Huyện này có 5 tổng, cộng 39 xã, thôn phường.

« TrướcTiếp tục »