Hình ảnh trang
PDF
ePub

PHÀM-LỆ

(30 NGUYÊN - TẮC )

1.− Sách này phụng chuẩn biên chép từ năm Thành Thái 18 (1906) về trước, cho nên những việc từ năm 19 (1907) về sau đều chưa đăng tải.

2.– Phân-dã thiên văn và khử cực độ số đi tác ở $ xa xôi mù mịt khó cứu, và thuyết-giả lại khác nhau, không biết theo đâu chiêm-nghiệm, nên đây tạm y theo thuyết cũ đăng lục. Vả lại trong toàn-kỳ 1 t cũng đại-lược giống nhau, chỉ ở Thừa-Thiên và Thanh-Hóa 2 hạt ấy phải biên rõ, vì Thừa-Thiên là chỗ Đế-đô, ThanhHỏa là chỗ khai vương-tích £ về, còn các tỉnh khác đều sơ lược cho khỏi trùng điệp.

3.– Kinh-sư là căn-bản trọng-địa, phải đặc-biệt biên chép để tỏ sự long-trọng.

4.- Đầu bộ sách trước hết vẽ một toàn-đồ trong Hoàng thành kinh-su, vẽ rõ thành quách, cung điện, lâu-các, bộ-thự và quân-xá là thống-qui về chỗ chi-tôn vậy.

5.– Trọn cả nước vẽ chung một bản-đồ Đại-Nam-quốc, 1 bảnđồ riêng xứ Trung-Kỳ, trong bản-đồ vẽ đại-thế các núi sông biển đã trong nước, ghi rõ các phủ tỉnh và ranh giới các nước. Còn các phủ huyện châu thì đã vẽ rõ trong bản đồ các tỉnh, nên trong bản đồ này phải tỉnh-bút cho tiện.

6.− Mỗi tỉnh, đạo đều vẽ một toàn-đồ ở đầu quyển sách tỉnh ấy, trong đồ vẽ các danh-sơn đại-xuyên, các miền sông biển hạ du, và ghi rõ chỗ tỉnh thành cùng các lỵ-sở phủ huyện châu, các con đường, các chỗ cô-tích như là cổ thành cổ-lũy v.v..., còn các tổng xã thôn không ghi vào để cho bớt việc.

7.– Việc kiến-thiết thay đổi các tỉnh hạt đều biên đủ cả đầu đuôi, theo từng khoản kê-cứu, nhưng có địa-hạt đã phân ra mà sự thể còn thống-thuộc nhau, cũng đều biên vào, không ngại sự trùng phúc, để cho độc-giả dễ nhận xét.

8.– Khi-hậu Trung-Kỳ đều ở gần ôn-đới, không khác nhau lắm, duy có Tả-Kỳ (từ Bình-Định đến Bình-Thuận) gần đường - xích

đạo nên khí-hậu có hơi khác. Trong sách này nói về kỷ làm nông và buổi nước lên nước ròng, có chỗ nói rõ, chỗ nói lược qua, độc giả nên tham khảo.

9.– Phong-tục có quan hệ về sự giáo-hóa, văn hiến ở trungchâu tuy đại-lược giống nhau, nhưng cũng theo từng tỉnh ghi chép. Duy nơi man-thổ bị nhốt vào tập tục, đều giống nhau cả, chỉ các miền thượng du, 2 hạt Thanh Hóa và Quảng Trị thì biên rõ, còn các tỉnh thì đều lược-biên, độc-giả nên theo từng loại suy xét.

10.− Các chỗ thành-trì, có chỗ trước nói nguyên-lý, sau nói hiện-ly, hoặc trước nói hiện-kim, sau nói chỗ nguyên-thiết, ấy là tùy theo văn-thế, cần được rõ ràng chứ không phải phân biệt chi cả. Trong ấy chỗ nào có những thành lũy thì biên đủ qui-thức, kỳ dư chỉ nói ly-sở, cho bớt phiền văn, Ngoài ra, những chỗ chỉ có tên thành mà không phải là trị-sở thì biên riêng ra ở dưới điều-khoản phụ-thuộc (như Trấn-Hải thành, Định-bắc, Trường thành thì biên ở dưới mục « Quan-tấn » ; Phật-thệ-Thành, Đồ-bàn Thành biên ở dưới mục « Cổ-tích ». Chi như các phủ huyện thuộc hóa-ngoại không có trị-sở nhất-định thi bỏ thiếu không biên là vì sơ-lược nơi xa vậy (như phủ Trấn-Man và huyện Sầm-Na ở Thanh Hóa, phủ Trấn Biên và các huyện xa ở Nghệ-An).

11.– Ngạch số định điền trước đây thêm bớt không nhất-định, nay chiếu cứ theo nghị-định mới cải năm Thành-Thái 11 (1899) và theo thiệt số trưng thâu năm Thành-Thái 18 (1906) mà chiếu từng hạng đăng-ký để biết đại-khái, sau này hoặc thêm bớt thể nào chưa ấn định được.

12. Núi sông sở dĩ nêu rõ cương vực, hạt nào nhiều sơnphần và giang-phần thì biên những chỗ lớn mà chỗ nhỏ cũng lấy sở-cận biên phụ theo, hạt nào ít núi sông thì tuy núi sông nhỏ cũng biên vào để nêu sở-hữu của địa-hạt ấy. Trong ấy gọi núi là sơn hay là lãnh, gọi sông là giang hay là hà, ấy là nhơn theo cựu danh mà gọi, chứ ý nghĩa chẳng phải có phân-biệt gì lắm. Đến như các man. phần thượng-du có đến muôn khe ngàn núi không thể biên chép cho hết, nên phải lược qua.

13.– Chỗ giới-hạn 2 hạt tiếp giáp nhau mà có núi sông thi

cũng đều biên vào cả, nhưng biên lược trong tỉnh này, thì biên tường trong tỉnh kia, lại chú rõ ở dưới chỗ ấy để tiện tham khảo (như núi Cù Mông ở Bình-Định thì nói rõ trong địa chi Phú-Yên, sông Lam-giang ở Hà-Tĩnh thì nói rõ trong địa chi Nghệ-An, Hoành Sơn thì nói rõ ở địa-chi Quảng-Bình).

14.– Các loại gò rừng, cồn đảo, hồ ao, khe đầm, chỗ nào có con đường ngang qua hay là có lợi cho dân sở tại thì lựa biên vào, kỳ dư bỏ qua để khỏi phiền-toái.

15.– Các cô-tích niên-đại lâu xa, hoặc chỗ còn di-chỉ, hoặc chỗ đã san bằng, đều nhưng-cựu ghi vào để tồn cổ tích.

16.– Từ-miếu tự quán chỗ nào cũng có, không xiết biên cho hết, duy chỗ có lệ quốc tế, hoặc phụng ngự-tứ biển ngạch và chỗ có linh ứng, xưa nay gọi là danh-thắng, thì mới biên vào để biểu thị linh-dị.

17,– Các đàn sơn-xuyên xã-tắc, qui-chế nói rõ ở Địa-chi Kinh sư, kỳ dư các tỉnh chỉ ghi chỗ sở-tại, còn qui-chế không khác gì lắm, nên nói lược qua.

18.– Những thần từ nào có sự tích đáng ghi chép thì đều chủ-thích rõ ràng, còn đồng một vị thần mà nhiều chỗ phụng tự thì biên lược chỗ này biên rõ chỗ kia, nhưng có chua nói: “ tưởng kiến chỗ nào đó », để tiện kê-khảo.

19.– Mục quan-tấn có nói đến các chỗ đồn bảo yếu hiểm, tuy nay hoặc đã triệt bỏ, nhưng cũng nhưng-cựu biên vào, để thấy hình thẳng sở-tại. Đến như mấy chỗ tuần ải trong niên hiệu Minh-Mạng thứ 17 (1836) chuẩn cải làm « quan » Bỉ cả, và các yếu địa đồn bảo ở sơn nguyên 4 4 cũng đều nhơn theo loại ấy mà phụ v

biên vào.

20.– Những trạm dịch nào ở theo đường thiên-lý, thì số dặm đều biên rõ ràng, chi như các trạm, mới đặt là trường-hợp tùy-nghi thì số dặm những đường ấy dài vắn không đồng, nên biên dài mấy trượng, mấy thước, hoặc đi mấy tiếng đồng hồ, mấy nhật-trình, đều chiếu theo tư-văn của các tỉnh để biết đại-khái xa gần đó thôi (Lý lộ ở sau đây cũng đồng như thế).

21.− Bến đò là đường đề đi qua lại, cho nên những tên hiệu xã thôn sở tại ở hai bên bờ sông đều có biên rõ để tiện nhận xét.

22.— Theo đường quan nào có bến đò, có đôi chỗ mới làm cầu qua, nhưng cũng để y tên cũ (như bến đò Hương-Giang ở ThừaThiên, bến đò Nại-Giang ở Hà-Tĩnh) mà chua rõ tên mới đổi ở dưới chỗ ấy.

23.— Đê đập theo thời chứa nước hay tháo nước ra là quan hệ ich-lợi cho nhà nông, duy một hạt Thừa-Thiên và ở các tỉnh nào cỏ quan đê (đê của quan) hoặc phụng chuẩn cho sở-tại tự túc, thì kê làm một điều trong sách này, kỳ dư tỉnh nào không có hạng đê ấy, hoặc do dân địa-phương đắp riêng đê nhỏ thì không cần liệt-kê.

24.– Các sở kiều-lương, thước tấc trường hoành là cứ theo tư văn của các tỉnh, tựu-trung có chỗ dùng thước nam, có chỗ dùng thước tây chưa được nhất-luật, đây cứ theo mỗi chỗ dùng thước nào điền-chú ở dưới để cho phân-biệt: trong số ấy hoặc là cầu sắt hoặc cầu gỗ đều có chủ rõ, duy cầu xe lửa toàn dùng bằng sắt, thì bất tất viết thêm chữ thiết (sắt) làm gì.

25.— Các cầu ở đường quan không luận dài vắn, đều biên chép đủ cả, còn các thôn lạc hẻo lánh, khe suối nhiều ngả, biên sao cho hết, nên không biên vào.

26.– Phố thị nhiều chỗ lấy hiệu của thôn xã chỗ ấy, cũng có chỗ gọi theo tục-hiệu thì ở đây cũng ghi theo tục-hiệu ấy, nhưng có chú-hiệu xã thôn sở tại ở dưới chỗ tục hiệu, còn những nơi tụ tập linh-tinh thì đều bỏ không biên, và những chỗ đã đổi dời hoặc đã bỏ rồi thì cũng không biên (như phố Phù-Thạch ở La-Sơn, Hà-Tĩnh, chợ Cựu Lãng ở Nghệ-An Hưng-Nguyên, chợ Cổ-Thành ở Triệu-Phong, Quảng-Trị v.v..).

27.– Nhân-vật, người nào có công-nghiệp rõ-rệt, và có tiết nghĩa đáng khen, thì bất cần quan chức lớn nhỏ đều theo sự thật biên chép, nhưng lấy niên-đại trước sau làm thử-tự, chứ không nệ quan-chức lớn nhỏ.

28.— Các vị danh-thần ở bản-triều đều đã chép rõ trong bản truyện, nay đều trích-biên đại-khái để tnh-tiết phiền văn, còn vị nào

chưa có bản truyện mà về hưu trước ngày tháng phụng chuẩn này (1) thì tuân theo thể lệ chính-biên liệt-truyện năm Đồng-Khánh thứ 3 (1888) mà thủ thứ đăng tải (như Trần-Đình-Túc ở Quảng-Trị, VõTrọng-Bình ở Quảng-Bình v.v...). Đến như những hạng hiếu-tử, thuận tôn, nghĩa-phu, tiết-phụ và liệt nữ, cao-tăng có danh tiếng trên đời đủ làm gương khuyến-lệ, cũng đều theo từng loại phụ-biên vào.

29.– Thổ-sản món gì đem thượng tiến và có ngạch thuế, cùng những vật theo thỏ-nghi ngon hơn thì đều chú rõ ở địa phương ấy. Kỳ dư các vật thực-dụng nên dùng làm thuốc, mà ở các tỉnh đều có thì tra theo bản thảo và tham-gia tục danh của ta chép rõ từng thứ trong quyền Thừa Thiên-Chi, còn những vật không rõ thì đều lược-biên,

30.— Kinh-sư là gốc trong nước, đô thành ở phủ Thừa Thiên, nên giữ thứ-tự bộ sách này phải để Kinh-sư ở đầu, thứ 2 đến Thừa Thiên, thứ 3 đến Tả-trực (Quảng-Nam, Quảng-Ngãi), thứ 4 đến Hữu trực (Quảng-Trị, Quảng-Bình), thứ 5 đến Tả-kỳ (Bịnh-Định đến Bình Thuận), thứ 6 đến Hữu-kỳ (Hà-Tĩnh đến Thanh-Hóa), thứ 7 Bắc-kỳ (thập tam Tuyên), thứ 8 Ngoại quốc thuộc địa phụ-chép ở sau, ấy là cỏ ý cư-trung chế-ngoại vậy (2). Tựu-trung Nam Kỳ đã về nhượng địa, Bắc Kỳ nhiều nơi phân-thiết mới mẻ, đã thương tòa Khâm-sử khảo cứu, mà chưa phúc đáp, không do đâu tra xét được, phải tạm biên lục như cũ để cho biết những nơi thống thuộc, đợi sau sẽ tiếp tục.

(1) Phụng chuẩn nghĩa là vâng theo chỉ vua chuẩn y cho làm Nhất-Thống Chí này.

(2) Ở Trung ương khống chế các tỉnh ngoài.

« TrướcTiếp tục »