Hình ảnh trang
PDF
ePub

KHÍ HẬU

Khi hậu tỉnh này về mùa xuân còn rét. Mùa hạ thì hay mưa. Mùa thu rất nóng. Mùa đông thì rất rét, 5 huyện đều có chướng khí, mà huyện Quảng Uyên thì nặng hơn cả. Ruộng đất xơ xác, như là có mùa thu mà không có mùa hạ. Tháng tư cấy, tháng 8 tháng 9 thì gặt, cuối mùa thu thì khi trời rét lạnh quá, lúa không trổ bông được, mà chỉ khô dần đi. Người thổ nhân cứ xem lá cây, hay sấm dạy để chiêm nghiệm năm được mùa hay mất mùa. (Thổ tục tỉnh Cao-Bằng, người thổ cùng bảo nhau rằng ; hễ thấy lá cây ở núi đất mà đỏ, thì nên hạ điền (cầy); Hễ thấy lá cây ở núi đá mà đỏ, thì là đềm được mùa Hễ thấy ngày mùng 3 tháng 3 mà có mưa, thì giống đậu tỉa mất mùa. Mồng 6 tháng 6 mà mưa, thì đến vụ lúa không được mùa, Hễ tháng 10 mà mưa lụt, thì năm sau cũng mất mùa.

PHONG TỤC

Tỉnh này người Thổ người Nùng ở lẫn lộn, văn học ít ỏi. Những người chăm nghề làm ruộng trồng dâu, thì chất phác quê mùa. Bốn mùa tiết lệ cũng hơi giống như người Tàu, còn như việc dựng bia hay trồng cây để làm kỷ niệm, không bao giờ quên lòng ái mộ, « Tỉnh Cao Bằng tuy là đất người Thổ người Nùng ở xen lẫn, mà dân biết chuộng việc nghĩa. Có những việc xa đời mà cùng cảm, thì họ ghi nhớ mãi mãi. Những người thanh, trung, những người làm Đốc đồng và những bậc làm quan có tiếng tăm, sau khi mất đi, họ có dựng đền thờ. Như đền ông Trần. Quý Trần-Kiên, gọi là đền Song-vinh, như ông Phù-Thắng, Phù-Thoát là người có đức, thì đời đời vẫn thờ cúng. Ấy đều là không quên lòng ái mộ vậy ». Hay dựng cờ xưởng nghĩa, cùng gom sức để diệt kẻ thù chung, « Triều Lý có ông Hoàng-Lục (người làng Lũng-định), bực với quân nhà Tổng cử đến xâm lăng, ông mới thống suất nhân đân

xứ ông, hết sức đánh lùi được quân Tống. Lại năm Minh Mạng 14 (1833), thổ phỉ Bế-văn Cận theo bọn nghịch dân ở Bảo Lạc đánh vậy tỉnh thành. Những hào mục các huyện cùng xướng suất hương dũng dựng cờ nghinh tiếp quan quân, cùng đánh giết được bọn Văn-Cận, sau khi bình được giặc, được mông thưởng quan chức đến hơn 60 người, và 39 xã thôn được ban biển ngạch đề 4 chữ « Hiếu Nghĩa Tri Phương » để khen thưởng. Xem thế thì biết cái phong tục trung nghĩa, không có phân biệt người Thổ người Nùng vậy. Duy những người Thỏ mà giàu có thì hay đề của riêng và ở riêng, mà người Nùng thì dẫu giàu có cũng vẫn cùng ở cùng bếp nước với nhau. Người Nùng người Thổ không có kết hôn với nhau, nhưng cùng có tục nhà gái thường cưới rẻ về nhà mình. (Người Thổ người Nùng hoặc chỉ có con gái nhà không có con trai, thì con gái có tục cưới chồng về nhà, gọi là « Thượng gia nạp tế ». Người con trai đã gửi rể, thì theo về họ vợ, nối dõi về họ ấy mãi mãi, phong tục ấy thường đã có từ lâu. Cũng có việc hôn nhân không cần mối lái, chỉ yêu nhau khi gặp gỡ nơi hát xưởng đùa cợt rồi một vài ngày hai bên bằng lòng nhau, thì người con gái đem ngay người rể về. Khi có bệnh thì họ không cần uống thuốc, dù sống chết cũng nhờ ở sự đồng bỏng cầu cúng mà thôi. Hễ nhà nào có ốm đau, thì không tìm thầy thuốc, chỉ chuyên nghe thầy cúng và các cổ đồng bày đàn lễ cầu đảo cho người bệnh là được), vì cái tục mọi dợ chưa bỏ hết được.

[ocr errors]

THÀNH TRÌ

Tỉnh thành Cao-Bằng

Thành này chu vi 180 trượng, cao 7 thước 7 tấc, có 3 cửa, hào rộng 2 trượng, sâu 7 thước, ở xã Gia đồ huyện Thạch-An, (xét năm Vĩnh-Trị đời Lê-Hy-Tồn mới lập trấn, thì còn đặt tạm trị sở tại làng Lạc-Dương, huyện Thất-Khê, tỉnh Lạng-Sơn. Sau lại dời lên phố Cao Bằng (tức là nơi thành cũ của nhà Mạc); sau lại dời đến thành Mục Mã, đắp từ đời Lê cũ.

PHỦ LY TRÙNG KHÁNH

Phủ lỵ này ở làng Mạnh -Thủy, huyện Thạch . Lâm, Nguyễn trước là phủ lỵ phủ Hòa-An. Đến năm Tự. Đức thử 4 (1851), bỏ phủ Hòa-An, nên phủ trị này mới di lại đây.

HUYỆN LỴ. THẠCH-AN

Huyện lỵ này ở làng Kim-Ba. Nguyên trước ở làng Phúc Ứng, đến năm Thiệu Trị thứ 3, (1843), mới dời về đây.

HUYỆN LỴ. QUẢNG-AN

Huyện lỵ này ở làng Phiên-Dương,

HUYỆN LỴ HUYỆN THƯỢNG-LƯƠNG

Huyện lỵ này ở về làng Hiếu Lễ.

HỌC HIỆU

Nhà Phủ học Phủ Trùng-Khánh.

Nhà phủ học này ở niên (1848) mới lập ở về nơi này,

bên tả phủ trị. Năm Tự Đức nguyên phía đông tỉnh thành, sau mới dời

HỘ KHẨU

Năm Gia-Long 18 (1819) Số định 8083 người, nay lên tới 9439 người,

THUẾ RUỘNG

Điền thổ cộng 36009 mẫu. Ngạch thuế: số thóc thuế là 9974 hộc, số tiền là 16087 quan, vàng 2 lạng 5 đồng cân, bạc 2180 lạng.

« TrướcTiếp tục »