Hình ảnh trang
PDF
ePub

Hoàng-Đế, năm Ất-mão (1735),Mạc-Cửu mất;vua sắc cho con là Thiên. Tử làm Đô đốc Hà tiên trấn, đặt nhà thuộc, đắp thành bảo, chia lập phố xá, người thương mãi tụ tập càng nhiều. Thiền-Tử lại mời sĩ. phu văn-học hằng ngày ngâm vịnh, có tập thơ Hà-tiên thập Vịnh truyền thề.

Đời Thể.Tống Hiếu-Vũ Hoàng-Đế, năm Đinh sửu (1757), ở Cao. man có quốc loạn, Nặc.Tồn chạy qua Hà tiên, Thiên Tử xin vua cho hộ tống về nước. Nặc.Tồn cảm đức đó bèn cắt cho đất 5 phủ: Châu. sum, Sài-mạt, Linh quỳnh, Cần-bột, Hương úc Ầ đầu

[ocr errors]

* * . Thiên-Tử đem dâng quốc triều, vua cho qui vào Hà tiên quản hạt, rồi lập đạo Kiên giang ở đất Lạch giá, đạo Long-xuyên ở đất Cà mao, đều đặt quan lại cai trị.

Đời Duệ-Tông Hiểu.Định Hoàng Đế, năm Nhâm-thìn (1772), ngụy vương nước Tiêm là Phi-Nhã.Tàn = ý * đánh cướp Hà-tiên, giết hại cả thành, Thiên-Tử lui giữ Trấn-giang. Mùa xuân năm Ất-Vị (1775) Duệ-Tông vào nam, Thiên Tử đến hành tại Gia-định bái yết rồi trở về Trấn-giang chiêu tập nạn dân. Mùa đông Đinh.dậu (1777), Tây-sơn xâm phạm Long-xuyên, Thiên-Tử qua Tiêm cầu viện, bị Phi. Nhã-Tân nghi ngờ, ông mất ở Xiêm. Hà-tiên bị Tây-sơn chiếm cứ Đời Thế-Tô Cao-Hoàng-Đế năm Đinh-Vị (1787) mới thu phục lại. Năm Mậu thân (1788) đem 2 đạo Kiên giang và Phong-giang cải thuộc Trấn Vĩnh-long. Năm Gia-Long thứ 7 (1808) mới đặt 2 huyện Kiêngiang và Long-xuyên do đạo quản hạt. Năm thứ 9 (1810) cải thuộc về Hà-tiên. Năm Minh-Mạng thứ 6 (1825) bỏ đạo đặt Tri huyện. Lại ở trấn hạt đặt huyện Hà tiên, đặt phủ An-biên. Năm thứ 13 (1832) phân hạt gọi là Hà tiên tỉnh, cải phủ An biên làm phủ Khai-biên, huyện Hà-tiên làm huyện Hà châu. Năm 14 (1833) có biến nguy Khôi, tỉnh thành thất thủ, liền bị quân Tiệm xâm lăng giày đạp, có đại. binh tấn tiễu mới dẹp yên được. Năm thứ 15 đổi lại phủ Khai biên làm phủ An.biên, lại lấy đất Cần bột, Hương Úc đặt làm phủ Quảng biên và phủ Khai biên. Năm thứ 18 (1837) giảng phủ Khai biên làm huyện, đặt thêm huyện Kim-trường rồi đổi tên lại là Vĩnh trường, đều thuộc phủ Quảng-biên. Năm thứ 20 (1839) đặt phủ Tịnh biên

[ocr errors]

lấy 2 huyện Hà dương và Hà-âm thuộc phủ mà do tỉnh quản hạt. Trong niên hiệu Thiệu Trị bỏ phủ Quảng-biên, lấy 1 phủ Tịnh biên và 2 huyện cải thuộc tỉnh hạt An giang Nay Hà tiên hiện lãnh 1 phủ 3 huyện.

Phú An-bien 安邊府

phía tây bắc bờ quách tỉnh thành; số dặm đông tây nam bắc cách nhau cũng như số dặm của tỉnh, nghĩa là diện tích bằng nhau. Nguyên trước là đất Phương thành 3 k của Cao. man, Mạc-Cửu khai thiết làm Hà-tiên trấn (chua đặt phủ). Bản triều năm Minh.Mệnh thứ 7 (1826) mới đặt tên phủ này nhưng chưa có Tri-phủ, việc phủ do Tri-huyện kiêm lý. Năm thứ 13 cải phủ Khai biên lại tên cũ, năm 17 (18 6) mới đặt chức Tri phủ ; lãnh 3 huyện, 11 tổng, 149 xã thôn bang phố.

[blocks in formation]

Đông tây cách nhau 27 dặm, nam bắc cách nhau 42 dặm ; phía đồng đến huyện giới An-giang Hà dương 25 dặm, tây đến biển 2 dặm, nam giáp huyện giới Kiên-giang 22 dặm, bắc đến đất mọi 20 dặm. Năm Minh.Mệnh thứ 6, đổi đặt làm huyện Hà-tiên. Năm thứ 13 (1832) cải làm Hà-châu. Năm thứ 17 (1836) thuộc phủ kiêm.lý ; lãnh 5 tổng, 63 xã thôn bang phố

Huyện Kiên-hà BJ M
堅河縣

Cách đồng nam phủ 90 dặm dư; đồng tây cách nhau 37 dặm, nam bắc cách nhau 44 dặm ; đông đến huyện giới Phong-phủ tỉnh Angiang 25 dặm, tây vượt núi Tật-lê đến biển 12 dặm, nam đến lâmgiới huyện Long-xuyên 22 dặm, bắc giáp huyện giới Hà châu 22 dặm. Nguyên xưa là đất Giá-đà kg x của Cao-man, từ có Mạc Cửu khai thác mới thuộc về Hà tiên, sau đặt làm đạo Kiên-giang. Năm Gia. Long thứ 7 (1808) mới đặt tên huyện này, nhưng do đạo quản hạt. Năm Minh-Mạng thứ sáu (1825) bỏ chức Quản đạo đặt lại chức Tri huyện, thuộc tỉnh An-biên thống hạt; lãnh 4 tầng, 66 xã thôn bang phổ.

Huyện Long xuyên * ) H

ở đông nam phủ hơn 150 dặm ; đông tây cách nhau 35 dặm, nam bắc cách nhau 33 dặm; đông giáp huyện giới Phong-thạnh tỉnh Angiang 18 dặm, tây vượt qua núi Bạch thạch Ẻ & đến biển 1 dặm, nam đến Hào tấn, rồi đến biển 15 dặm, bắc giáp làm phận huyện Kiên giang 18 dặm. Nguyên trước là đất Cà-mao # t 哥毛 của Cao.man, từ có Mạc Cửu khai thác mới thuộc Hà-tiên rồi đặt đạo Long-xuyên. Năm Gia-Long thứ 7 (1808) đặt tên huyện này, nhưng thuộc đạo Long-xuyên quản thủ. Năm Minh-Mạng thứ 6 (1825) bỏ đạo, đặt Tri huyện thuộc về phủ An-biên thống hạt; lãnh 2 tầng, 55 xã thôn bang phố.

[merged small][ocr errors]

Tỉnh hạt này đồng nam giáp tỉnh An-giang, tây-nam dọc theo biển, bắc đến Cao-man. Núi to thì có núi Tổ châu * 5, núi Ngũ hồ I. ; sông lớn thì có sông Đồng-hồ thành * 34 Đk ; lấy các giải núi làm ngoại quách, lấy ba mặt giáp biển làm thâm-trì; trọng-hiềm thì trong có trường lũy Mỹ-anh * *, ngoài có trùng lũy Thị-Vạn A *, đường sau có thể-bảo Giang-thành ; b* đủ để ngăn chặn yếu hiển ;hải tấn có pháo đài Kiên-dự ý bật, đủ để khống chế sự xung-đột. Lại bên tả pháo-đài có Lộc-trĩ Æ lề, bên hữu có Lưkhê Â, nương dựa hình thể làm chỗ yết hầu quan yếu. Đường sông thì có sông Vĩnh-tế để ghe thuyền đi thông thương, ngoài biển có đảo Phú-quốc làm bình chướng ở mặt tiền, ấy là một cửa ngõ hệ trọng cho xứ Nam kỳ. Còn đồ hội duy ở tỉnh lỵ và ở Kiên giang, Giá-đà đều được khả quan.

[ocr errors][merged small][ocr errors]

Đất đai thấp ướt, khi trời nóng nực, bốn mùa khí nóng hơn

nửa năm, mùa xuân khí nắng thạnh hành, qua hạ thu thường có trận

[ocr errors][merged small][ocr errors]

mưa ; từ tháng 4 đến tháng 9 gió nam thổi mạnh, qua tháng 10 mới hết; tháng 11, 12 đến tháng giêng, tháng 2 thường có gió bấc. Gió nam thường thổi mạnh vào buổi sớm, gió bấc thường thổi mạnh buổi chiều. Tháng giêng đã nghe có tiếng sấm, sau tiết lập-đông còn chưa biết lạnh. Lại thường có gió núi hay gió biển lạnh buốt xương. Những khí chưng uất hay sinh bịnh chướng lệ phong bại. Khi nước triều lên gặp gió đông bắc thạnh thì ngập tràn bờ bến, còn không thì nước trào lên xuống hôm sớm như thường. Mùa nông, tháng 5, 6 gieo mạ, tháng 7,8 cấy, tháng chạp tháng giêng gặt.

PHONG TUC風俗

Kẻ sĩ biết chữ, dân siêng làm ăn, quá nửa là nghề bán buôn, còn kỹ nghệ tầm thường. Ở gần biển thì làm nghề lưới đáy, cắm đăng để bắt cá ; ở gần núi thì hay bắt chim và tổ ong để bán. Người quân-tử hay thích điều nghĩa, siêng việc công; kẻ tiểu nhân thì an thường thủ phận, không có gian tham trộm cướp. Nhiều người hào hiệp và hay trau giồi hoa sức, đàn ông ra đường hay che dù, đàn bà con gái trùm đầu bằng khăn vải dài, con trai bởi tóc hay cài khúc thoa (cải thoa cong một đầu) để cho tóc khỏi số con gái trang sức sơ đạm, bởi tóc thả thông ra sau. Tính người mau lẹ, nữ công tinh xảo, hay đi thuyền giỏi nghề bơi nước, ưa nóng ghét lạnh; bệnh tật ít hay tìm thầy uống thuốc, ưa dùng đồng bóng và thầy phù pháp Cao–Man. Gặp việc tang-tế, lễ nghi theo nho mà cũng theo Phật. Có việc hoàn nguyện ắt đốt đèn trời ; cưới gả thì dùng có 3 lễ Vấn-danh, thỉnh-kỳ, và thân nghịnh. Tinh ưa thờ Phật, những ngày tam.nguyên (thượng nguyên, trung-nguyên và hạ nguyên) đều dùng hương đèn hoa quả cầu phước trước bàn Phật. Đêm nguyên-đán chiêm nghiệm khi trời trong sáng thì năm ấy được mùa mảng lúa thóc, hoặc khi đất trong sáng thì năm ấy được mùa ở sông biển, ấy là di tục chiêm nghiệm trong năm. Tiết đoanngọ 5-5 âm lịch làm bánh ú có sừng để củng tiên.tô, và đua ghe ; tiết thanh-minh con trai con gái đi tảo mộ ông bà gọi là đạp-thanh ; tiết trung thu mời bạn hữu chung thưởng trăng thu, đêm trừ tịch thì

thắp đèn suốt đêm gọi là « thủ tuế 7”. Còn tục thổ dân thì mỗi năm cứ đến tháng ba là sắm đèn hương hoa quả đến cầu phước ở chùa Hồ-tự * † rồi 3 ngày sau có cuộc hội-ẩm gọi là hạ-tuế bị . Tháng 8 có lễ rước nước, tháng 10 lễ đưa nước, giống như thổ tục ở An-giang.

THÀNH TRÌ H

Tỉnh thành Hà tiên chu vi dài 95 trượng 2 thước, cao 7 thước 2 tấc, chân dày 1 trượng 5 tấc, xây đả ; hào sâu 3 thước 5 tấc, có 3 cửa tiền tả và hữu. Nguyên trước đóng ở địa phận xã Mỹ đức huyện Hà. châu, năm Minh-Mạng thứ 9 (1828) dời qua giang-thành thủ, đến năm thứ 14 (1833) dời lại chỗ cũ, rồi năm thứ 15 xây đá bảo Trấn biên và nhân đó làm lỵ-sở tỉnh thành.

Phủ trị An-biên chu vi 50 trượng, rào tre ; ở địa phận thôn Mỹ-đức huyện Hà-châu kiêm lý, cất năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Huyện bảo Kiên-hà, mặt trước dài 19 trượng 2 thước, bề ngang 12 trượng 6 thước, ở địa phận xã Vân-tập, đắp năm Thiệu-Trị nguyên niên (1841).

&

Huyền trị Long xuyên chu vi 52 trượng, rào tre, ở địa phận thôn Tân-châu. Nguyên trước ở thôn Tân-phong, năm Minh-Mệnh thứ 7 (1826) dời qua chỗ này.

Còn các trường Tỉnh học, Huyện học thì chưa cất.

[ocr errors][merged small]

Ngạch số đời Gia Long hộ định 1500 người nay, 5793 người,

ĐIỀN PHÚ I th

Điền thổ 1699 mẫu, ngạch trung thuế lúa 1408 hộc, thuế tiền 1441 quan, thuế bạc 1292 lượng,

[merged small][ocr errors]
« TrướcTiếp tục »