Hình ảnh trang
PDF
ePub

dặm, phía nam đến huyện giới Tuân mỹ phủ Lạc - hóa 33 dặm, phía bắc đến huyện giới Tân minh phủ Hoằng trị 18 dặm. Nguyên trước là địa-phận huyện Vĩnh bình, năm Minh-mạng thứ 13 (1882) chia đặt làm huyện này. Năm thứ 16 (1835) trích nửa phần trong 2 tổng của huyện này cho thuộc vào 2 huyện Tuân.mỹ, Trà vinh trong phủ Lạc-hóa, lại đỗi đem một tồng thồ-dân của huyện Trà vinh thuộc về huyện này, và cho thống hạt với phủ. Hiện lãnh 6 tầng, 43 thôn.

Phủ Hoằng-trị 3 và Â

Ở phía đông tỉnh thành 65 dặm. Đông đến tây cách 140 dặm, nam đến bắc cách 53 dặm, đông đến biển hơn 100 dặm, tây đến sông huyện Kiến đăng tỉnh Định-Tường 40 dặm, nam đến huyện-giới Vĩnh trị phủ Định-viễn 25 dặm, bắc đến huyện giới Kiến hưng tỉnh Định tường 28 dặm. Nguyên trước là địa-phận tổng Tân-An; năm Gia-Long thứ 7 (1808) thăng làm huyện và vẫn chia làm 2 huyện là : Tân-minh, Bảo-an. Năm Minh-mạng thứ 4 (1823) thăng huyện Tân-an làm phủ Hoằng-an, lấy tổng Tân-mình và tổng Bảo. an làm 2 huyệnTân-minh và Duy-minh. Chia huyện Bảo an làm 2 huyện là : Bảo-an và Bảo hựu. Phủ Hoằng-an kiêm lý huyện Tân-minh mà thống hạt huyện Duy-minh. Đặt thêm phủ Hoằng đạo 32 i A kiêm lý huyện Bảo hựu mà thống-hạt huyện Bảo-anNăm Thiệu Trị thứ 4(1844) cải phủ Hoằng-đạo làm phủ Hoằng-trị. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) dẹp bỏ phủ Hoằng-An, để phủ Hoằng-trị kiêm lý huyện Bảo hựu, kiêm nhiếp huyện Bảo-an và thống hạt 2 huyện Tân Minh và Duy-Minh Vậy là phủ Hoằng Trị lãnh 4 huyện, 22 tổng, 152 xã thôn và bang.

Huyên Bão-hru 保佑縣

Đông đến tây cách 52 dặm, nam đến bắc cách 26 dặm. Phía đông đến huyện giới Bảo an 12 dặm, phía tây đến sông huyện Kiến đăng tỉnh Định tường 40 dặm, phía nam đến giới-hạn huyện Tân minh và huyện Duy-minh 11 dặm, phía bắc giáp huyện giới Kiếnhưng tỉnh Định tường 15 đặm. Nguyên trước là địa phận huyện Bảoan, năm Minh-mạng 18 (1837) chia đặt huyện, nầy thuộc phủ kiêm lý. Lảnh 6 tổng, 42 xã thôn và bang.

Huyên Bão-An 保安縣

Ở phía đông phủ trị 35 dặm. Đông đến tây cách 43 dặm, nam đến bắc cách 28 dặm. Phía đông đến cửa biển Ngao châu * H 21 dặm, phía tây đến huyện giới Bảo hựu 22 dặm, phía nam đến huyện. giới Duy.minh 12 dặm, phía bắc đến huyện giới Kiến-hòa tỉnh Địnhtường 16 dặm. Nguyên xưa là địa phận tổng Tân-an, năm Gia-Long thứ 7 (1808) đồi làm tổng Bảo an, thuộc phủ Định viễn, năm Minh mạng thử 4 (1823) đồi đặt làm huyện nầy thuộc về phủ Hoằng-An. Năm thứ 18 (1837) cải thuộc phủ Hoằng-Trị thống hạt. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) giảm huyện, qui về phủ kiêm nhiếp. Lãnh 5 tổng, 27 xã thôn và bang. Huyện trị khi trước ở thôn An.lý khi t nay bỏ.

[blocks in formation]

phía nam phủ trị 15 dặm. Đông đến tây cách 34 dặm, nam đến bắc cách 27 dặm. Phía đông đến huyện giới Duy-minh 11 dặm, phía tây đến huyện giới Vĩnh bình phủ Định viễn 23 dặm, phía nam đến huyện-giới Vĩnh-trị phủ Định viễn 14 dặm, phía bắc đến huyện giới Bảo.hựu 13 dặm. Nguyên trước là địa phận tổng Tân An, năm Gia-Long thứ 7 chia làm tổng Tân minh thuộc huyện Tân an ; năm Minh.Mạng thứ 4 (1823) thăng làm huyện, lại chia đất ra làm 11 tổng thuộc phủ Hoằng-An. Năm 18 (1837) trích 5 tổng cho thuộc vào huyện Duy.minh. Lãnh 6 tổng, 41 xã thôn và bang. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) dẹp bỏ phủ Hoằng-An, huyện Duy-minh do viên huyện Tânminh kiêm nhiếp và thuộc phủ Hoằng trị thống hạt. Lãnh 2 huyện 11 tồng, 75 xã thôn và bang,

Huyện Duy-Minh H HH H

Ở phía đông phủ trị 40 dặm. Đông đến tẩy cách 54 dặm, nam đến bắc cách 22 dặm: phía đông đến nam..... 46 dặm, phía tây đến huyện-giới Tân minh 8 dặm, phía nam đến sông huyện Trà vinh phủ Lạc hóa 12 dặm, phía bắc đến giới hạn 2 huyện Bảo hựu và Bảo an 10 dặm. Nguyên trước kia là địa phận huyện Tân-minh, năm Minh. Mạng 18 (1837) chia ra đặt thêm huyện này thuộc phủ Hoằng-An

thống hạt. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) dẹp bỏ phủ Hoằng-An, huyện này cải thuộc huyện Tân-minh kiêm nhiếp. Lảnh 5 tổng, 34 xã thôn. Huyện-trị nguyên ở thôn Phước kiến, nay bỏ

Phi Lac-Hóa樂化府

phía nam tỉnh thành 136 dặm. Đông đến tây cách 105 dặm, nam đến bắc cách 90 dặm. Phía đông đến cửa biển Cổ.Chiên * * n 36 dặm, phía tây đến giới-hạn Vân-châu * H tỉnh An giang 69 dặm, phía nam đến ngòi Cái trung tỉnh An-giang 8 dặm, phía bắc đến huyện giới Vỉnh bình phủ An-định 82 dặm. Nguyên trước kia là đất 2 phủ Trà vinh * * và Mân thit x * của ChânLạp. Đầu Triều Nguyên khai thác, người Chân-Lạp đem 2 phủ ấy nội thuộc về nước ta. Khi đầu trung hưng, Phiên mục * H là NguyễnVăn.Tồn # * # cai quản thổ dân đặt đồn uy-viễn t 威遠屯. Năm Minh-mạng thứ 6 (1825) cải phủ Mân-thít x x Ả làm huyện Tuân-mỹ 遵美縣,phå Tra-vinh 茶榮府 làm huyên Tràvinh, và đặt tên phủ nầy, thuộc thành Gia-Định. Năm 13 (1832) phân hạt, cải thuộc về tỉnh Vĩnh-long, kiêm-lý huyện Tuân-mỹ, thống hạt huyện Trà-vinh. Lãnh 1 huyện, 10 tầng, 146

xã thôn.

Huyện Tuân-mỹ * W

Đông đến tây cách 105 dặm, nam đến bắc cách 30 dặm. Phía đông đến cửa biển Cỗ-chiên 36 dặm, phía tây đến giới hạn Vân-chậu tỉnh An-giang 69 dặm, phía nam đến ngòi Cáitrưng tỉnh An-giang 8 dặm, phía bắc đến huyện-giới Tràvinh 22 dặm. Nguyên trước là phủ Mân-thít x 30 Ả, năm Minh-mạng thứ 6 (1825) đổi lại tên này, do phủ kiêm-lý. Năm 16 (1835) lại trích lấy 11 thôn Hán-dân ở huyện Vĩnh-trị cho thuộc về huyện này. Lãnh 5 tổng, 76 xã thôn và bang.

[merged small][ocr errors]

phía bắc phủ-trị 45 dặm ; đông đến tây cách 84 dặm, nam đến bắc cách 30 dặm. Phía đông đến cửa biển Cổ-chiên + từ 75 dặm, phía tây đến huyện giới Vĩnh-trị phủ Định-Viễn 9 dặm, phía nam đến huyện giới Tuân-nghĩa 23 dặm, phía bắc đến sông huyện

Duy-minh phủ Hoằng-trị 7 dặm. Nguyên trước là phủ Trà Vinh, năm Minh-mạng thứ 6 (1825) cải đặt làm huyện thuộc phủ thống hạt. Năm 16 (1835) lại trích lấy 20 thôn Hán-dân của huyện Vĩnhtrị đặt làm 2 tồng Trà-bình và Vĩnh-trị thuộc về huyện nầy. Lãnh 6 tồng, 70 xã thôn.

HÌNH THÉ 形势

[ocr errors]

Phía tả có Long-hồ, phía hữu có Ngư-câu, sau có sông dài, trước có cừ mới. Châu Bích-trận 3 rãi theo hộ vệ, nước nguyên đầu chảy đến trường lưu. Bao quanh có chợ Vĩnh thạnh chợ Long hồ, ghe thuyền tụ tập, phố xá liên tiếp, thành ra một yếu địa hình thắng danh khu đô hội vậy. Vả lại liên tiếp với tỉnh Angiang, thống hạt cả tỉnh Định tường, đủ làm rào dậu để cản vệ. Gần nơi tỉnh thành có những con sông dài rộng quanh theo làm những trì hào thiên nhiên của bản tỉnh. Ngoài ra còn có Tiền-giang, Hậu-giang, sông sâu nước chảy hùng dũng ; hòn đảo Con-lon đứng trấn giữa biển nguy nga. Nói về địa-lợi thì đồng bằng ngàn dặm, có ruộng vườn phì nhiêu xanh tốt ; nói về thủy lộ thì sông ngòi nhiều nhánh, có khi đi phải lạc bến cùng đường. Dọc theo biển có 4 hải-tấn : Định-an, Cô-chiên, Mân-thít và Ngao-châu, có bãi biển quanh co đóng kín cửa biển, thật là hiềm yếu.

KHÍ HẬU * T

Khí trời thường ấm áp, không gió bão, không mưa dầm, không lạnh nhiều, không nắng dữ, ngoài trời thường hiện mây đỏ, mùa đông thường nghe tiếng sấm, có gió mạnh từ hưởng nam đến trên mặt đất hay có sương mù. Đất xốp mà mềm dẻo rất là phì nhiêu. Nước tuy đục mà ngọt, tưới rửa được tiện lợi. Nơi bến sông bờ biển có thủy liễu mọc thành hàng, cành lá xanh rờn không hề biến đổi. Cây cỏ nở hoa đậu trái không phân biệt là mùa xuân hay mùa thu. Nơi ruộng sâu cắt cho sạch cỏ rồi vãi lúa giống xuống, không tốn công cầy bừa. Nhiều sông ngòi lưu thông nhưng không tích tụ khi lam chướng, duy có khi thấp nhiệt thường nung

nấu, nên có nhiều bịnh phong y . Tháng 8 tháng 9 thủy. triều rất lớn, mà người ta phân biệt khi nước lớn gọi là thủy đầu (đầu nước), khi nước nhỏ gọi thủy-vĩ (đuôi nước). Khi con nước buổi mai chưa lui hết mà con nước buổi chiều lại lớn lên, gọi là diều-triều * . Mùa nông: tháng 6 gieo mạ, tháng 8 cấy, tháng giềng gặt; một gia giống có thể gặt được 300 giạ lúa ; ruộng đất rất là phì nhiêu.

PHONG TUC風俗

Tánh người ưa chịu nắng, ưng ăn đồ mặn, ăn mặc khi dụng có văn-hoa mà cũng có chất-phác. Hôn-thủ tang-tế giữ theo luậtpháp lễ nghi. Kẻ sỉ chuộng thi thơ, dân thường ưa thương mãi. Nghề ruộng và nghề đánh cá đều nhơn theo lợi tự nhiên, dụng lực ít mà được lợi nhiều. Đất đai rộng, thứ ăn nhiều, ít cần súc tích dành để. Nhiều người biết lội bơi, thiện nghệ bắt cọp và câu cá sấu. Bách công kỹ nghệ chưa được tinh xảo. Hạng người quân tử hay chuộng lễ nghỉa, trọng danh tiết, còn hạng tiểu dân hay du thủ phù phiếm xa xỉ. Sùng bái Phật, tin đồng bỏng, trọng nữ thần. Việc tang tế hay mời thầy chùa cúng chay. Tể xã thị theo lệ xuân kỳ thu báo. Đàm đạo cùng nhau thường nói pha trộn tiếng Tàu và tiếng Cao-man, Còn phong tục người Thổ thì hay dùng vạt áo quần lên đầu ở đây k là (?) dưới quấn xiêm, bái chào kẻ tôn quí theo kiểu bái nhà Phật. Tin Phật giáo, khi chết thì mời thầy chùa làm lễ hỏa táng. Chữ viết thì học tập theo thầy chùa. Thường năm đến ngày 29, 30 tháng 8 và ngày 1 tháng 9 sắm sửa hào soạn đề cúng tổ tiên gọi là tiết nhật. Từ khi đổi bỏ phong tục Thổ thì những y phục khi. dụng lần lần bắt chước theo Hán-phong (1), duy có tự hoạch (chữ viết), tang tế và tiết nhật chưa sửa đổi

[ocr errors][merged small][merged small]

Chu-vi 100 trượng, cao 1 trượng, rộng 2 trượng 5 thước, hào

(1) Hán phong là phong tục của người mình.

« TrướcTiếp tục »