Hình ảnh trang
PDF
ePub

trên mặt nước Cá lội cò bay, có cảnh trí thiên nhiên rất đẹp ở

[blocks in formation]

Ở thượng-lưu sông Tiền-giang, là thôn-cu An-nhơn, Tânthuận và Hòa-an; thổ nghi có thuốc lá và dưa lí.

[ocr errors]

Ở phía đông sông Tiền-giang và sông Tân-đông, là 2 thôncư Tịnh-thời và Tần-tịch. Năm Kỷ-dậu, đầu khi trung-hưng, quân ta phá quân Thái-bảo Phạm-Văn-Tham (hay Sâm, Tây-sơn) ở bãi Hồ tức là nơi đây.

[blocks in formation]

Ở đất Tân-qui-đông: nước trong cát trắng, gió mát sông lặng; người có ghe thuyền thường đem ra đậu nơi đây không bị ruồi muỗi huyên náo, nên gọi là Tiên.

Bäi Phung-nga鵝洲

Ở phía bắc sông Sa-đéc, cong dài10 dặm. Phía đông là bãi Phụng châu, phía tây là bãi Nga; có 5 thôn-cư :Nghi-phong, Sùng văn, An-tịch, Tân-xuân và Tân lâm: Một gò đất rộng, giữa có ngòi nhỏ, Chia gò ra làm hai, vườn cây xanh tốt, cành liễu lòng thòng như đuôi chim phụng và có những bầy ngỗng lội tắm dưới bến nước, nên đặt tên bãi Phụng-nga. Chỗ này là cảnh tri lâm-tuyền mà lại gần thành thị, ai muốn nhàn tĩnh thì đến Tiên-phố bơi thuyền ra Tiềngiang mà tắm gội gió trăng; ai ưa phồn hoa thì qua thì qua Nam-tân đến Sa-đéc mà dạo chơi thành thị. Hơn nữa có sông để câu cá, có ruộng để làm nông, đủ cả lạc thú.

Bãi Thảo-Mãng ‡ A :

Ở thượng-lưu sông Hậu-giang, là sở tại thôn Bình thạnh.

Bãi Năng-cù đề Phí 24
能衢洲

Ở trước hạ khẩu thuận-lưu sông Hậu-giang, dài 6 dặm ; là sở tại

thôn Bình lâm :Rừng tre liền khít, ao cá rất nhiều, nhân dân ở

thượng lưu Hậu giang thử nhất là nhờ rừng tre và ao cả ấy, thử hai là nghề bông vải và thứ ba là lúa gạo.

Bäi Lê cóng 禮公
公洲

trung-lưu sông Hậu giang và hạ khẩu sông Lễ công; nguyên tên là bãi Cay-sao t *. Khi xưa Chưởng cơ Lễ thành-hầu là Nguyễn Hữu.Cảnh đánh Cao.man thắng trận về đóng quân ở đây, sau khi mất, người trong châu lập đền thờ cũng gọi là đền Lễ-công.

Qua Châu .

Tục gọi Cù-lao Bí ở hạ lưu sông Gia-giang, phía tây sông Cườnggiang ; trên tiếp vời bãi Châm-ba, dưới giáp bãi Thủy-liễu, ấy là bờ phía tây sông Du giang. Ba bãi đất nầy xâu dinh trồi sụt với nhau hình như sao Tam-thai = * vậy. Người ở đây chuyền trồng dưa, bí, cải, thuốc.

Bai Sa 沙洲

Ở hạ lưu sông Hậu-giang và sông Cường uy, là sở tại thôn Tân lộc. Đồng: Đường đi sâu vào toàn thị lau lách, nhiều cò, le-le đến đậu thật là một chỗ sầm tịch.

Bäi Hoàng dung 黄榕 洲

Ở phía tây-bắc hạ lưu sông Hậu giang. Từ phía nam sông Sâmđăng tỉnh Vĩnh long đến sông Ngang-đồ dài 35 dặm, làm bình chưởng cho sông Ba-xuyên ; sản nhiều dừa nước, người ở đấy thường lấy lá dừa bện lại thành tấm đề bản. Ở đây nhiều cọp nên gọi là Hổ-châu * H, tức là sở tại thôn An-thạnh-nhất và An-thạnh nhì.

23

CỔ TÍCH & B

Đôn ci Hǒi-ea 洄 渦故屯

Ở địa phận thôn Tân long (nay đổi làm thôn Hưng-long), huyện Vĩnh.an. Năm Đinh-tị (1787) khi đầu trung hưng, vua ThểTổ Cao-Hoàng-Đế từ nước Xiêm về đóng binh ở đây, nay di chỉ vẫn còn. Năm Tự-Đức thứ 2 (1849) Đốc-thần là Doãn-Uản p phỏng tra việc cũ, có dựng bia chỗ nền đồn cũ ấy, để ghi thắng

tích.

Đồn cũ Châu-đốc * ít

ở phía đông sông Vĩnh-tế, huyện Tây-xuyên. Năm Ất-hợi, Gia Long thứ 14 (1815), vua sai Trấn thủ Vĩnh-long là Lưu-PhướcTường đốc sức quân dân 3000 người đắp đồn theo hình lục giác, từ trước đến sau 162 trượng, từ tả đến hữu 3 sào 7 thước; phía hữu giáp Đại-giang, hào ở trước và hào ở sau rộng 10 trượng, sâu 11 thước, thông với Đại-giang, trong có phòng quân lính và chỗ chứa khi-giới đầy đủ; đem quận ở 4 trấn và đồn Uy-viễn 500 người đến lưutú. Ngang đối với đồn Tân châu ở Tiền-giang, cách về phía đông 32 dặm, phía tây cách Hà-tiên 203 dặm, phía bắc cách thành Nam-vang 244 dặm rưỡi, thật là một yếu-địa biên-phòng vậy. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) triệt phía đông đồn này xây cất tỉnh thành An-giang.

Đồn cũ Châu-giang * } e

Ở Thủ-sở cũ Châu-đốc, thuộc huyện Đôngxuyên. Đồn này ở đầu gò, thường bị nước lụt xoi lở, sóng gió ồ ạt, những thương thuyền đến đậu bị dồn dập đứng không ngay thẳng. Năm Gia. Long thứ 17 (1818), vua sai Trấn thủ Nguyễn-Văn-Xuân dời lên chỗ thủ-sở cũ 1 dặm, đắp đồn vuông bằng đất, mỗi phía 15 trượng, cao 6 thước 5 tấc, chính giữa mặt đồn đắp lồi nhọn ra hình bát giác, 2 bên tả hữu gần chỗ góc nhọn mặt tiền đều mở cửa ; hào sâu 15 thước, rào rộng 10 thước, mặt tiền hữu cách sông 17 trượng, gọi là Châu-giang-đồn làm chỗ thủ ngự phòng bị. Năm

Minh-Mạng thứ 18 (1837) đặt làm chỗ thâu quan thuế, năm Thiệu

-Trị thứ 3 (1843) đình bỏ.

Đạo cũ Đông-khẩu *n để đ

東口故道

Ở bờ phía nam sông Sa-đéc, thuộc huyện Vĩnh-An ; đặt ra năm Đinh sửu (1757), nay đã bỏ.

Thủ (1) cũ Đông-xuyên * 1 sg

Ở cảng đạo bờ phía tây sông Hậu.Giang, thuộc huyện Tâyxuyên; đặt ra năm Kỷ-Dậu (1789) khi đầu Trung-hưng, sau bỏ. Đến năm Minh-Mạng thứ 18 (1837) lại đặt làm chỗ quan sở của ải, nay cũng bỏ.

Thi cü Trán-di鎮夷故守

Ở bờ phía bắc sông Ba-xuyên thuộc huyện Vĩnh-Định ; đặt ra năm Kỷ-dậu (1789) đầu khi trung hưng, sau bỏ. Đến năm Minh Mạng thử 18 (1837) lại đặt làm quan-sở, nay cũng bỏ.

Thủ cũ Vĩnh-hùng * tây *

Ở Cảng-đạo bờ phía đông sông Hậu-Giang, thuộc huyện ĐôngXuyên; đặt ra năm Kỷ-dậu (1789) khi đầu trung hưng, năm MinhMạng thứ 16 (1835) triệt bỏ.

Thủ cũ Thuận-Tấn Mày 7 để gi

Ở bờ phía đông sông Hậu-Giang ; đặt ra năm Kỷ-dậu (1789), năm Minh-Mạng thứ 16 (1835) triệt bỏ.

Thủ cũ Cường thành 5 k để

Ở huyện Đông-xuyên, đặt ra năm Kỷ-dậu (1789) đến năm Minh Mạng thứ 16 (1832) triệt bỏ.

Thú ci Cuòng-uy 彊威故守

Ở Cảng-đạo bờ phía đông sông Hậu-giang; đặt ra năm kỷ-dậu, năm Minh-Mạng thứ 16 triệt bỏ.

(1) Thủ là cho phòng thủ, cũng như đồn bảo mà nhỏ hơn.

Thủ cũ Trấn-giang 3 : 3

Ở bờ phía tây sông Cần-thơ thuộc huyện Phong-phủ; đặt ra năm Kỷ-dậu (1789). Lại đặt một bảo lớn ở Xao-châu và 2 (phía bắc H cửa biển Mỹ-thanh), phái binh đến phòng thủ; cùng thủ Trấn-di nương dựa nhau. Năm Minh-Mạng thứ 16 giảm bỏ.

錢塲廠廠

Sưởng cũ Tiền-trường 4 Đ

Ở bờ phía đông sông Hậu-giang thuộc huyện Đông-xuyên ;

nguyên trước là sưởng đúc tiền Ba-thắt của nhà nước. Nay đã bỏ.

[ocr errors]

QUAN TẤN BA

Bão dät Vinh-té 永濟土堡

Chu-vi 23 trượng 8 thước, cao 5 trượng, ở địa-hạt huyện Tây xuyên ; đắp năm Minh-Mạng thứ 15 (1834).

[merged small][ocr errors]

Chu-vi 78 trượng, cao 3 thước, ở địa-hạt huyện Hà-âm ; đắp năm Thiệu-Trị thử 2 (1832).

Bão dät Vinh-lac 永樂土堡

Chu-vi 24 trượng, 8 thước, cao 3 thước, ở địa-hạt huyện Hà-âm ; đắp năm Thiệu-Trị thứ 2.

Bão dät Thân-nhon 親因土堡

Chu vi 32 trượng 4 thước, cao 3 thước, ở huyện hạt Hà âm ; đắp năm Thiệu-Trị thứ 2.

[blocks in formation]

Chu vi 40 trượng 5 thước 5 tấc, lại có bảo nhỏ chu vi 28 trượng 6 thước, cao 2 thước 5 tấc, ở huyện hạt Hà-âm; đắp năm Thiệu Trị thứ 7 (1847).

« TrướcTiếp tục »