Hình ảnh trang
PDF
ePub

ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ

TỈNH AN-GIANG sẵn là

Từ đồng đến tây cách 94 dặm, từ nam đến bắc cách 150 dặm. Từ tỉnh lỵ qua phía đông đến Tiền giang giáp giới huyện Kiến phong tỉnh Định tường 48 dặm;qua phía tây đến giới hạn huyện Hà-châu, Kiên giang, Long-xuyên tỉnh Hà Tiên 46 dặm ; phía nam đến biển 108 dặm; phía bắc đến giới hạn 2 bảo Tấn an, Bình di thuộc Cao-man 42 dặm ; phía đông nam đến giới hạn 2 huyện Vĩnh-bình, Tuân nghĩa tỉnh Vĩnh-long 196 dặm; phía tây-nam đến giới hạn tỉnh Hà-tiên 75 dặm; phía đông-bắc đến giới hạn tỉnh Định tường.26 dặm; phía tây-bắc đến cảnh giới Cao-man 44 dặm. Từ tỉnh đến kinh đô 2300 dặm.

[merged small][ocr errors][merged small]

Theo thiên văn, phân dã sau du-qui, 7 ý vị thứ sao

[merged small][ocr errors][ocr errors]

KIẾN TRÍ DUYÊN CÁCH 建 置 沿 革

Nguyên xưa là đất Tầm-phong-long ke a của Chân Lạp. Bản triều đời vua Thể Tôn Hiếu-Võ Hoàng-Để năm Đinh sửu thứ 19 (1757), vua nước Chân lạp là Nặc Tôn đem dừng, đặt làm đạo Châu đốc. Đời Gia Long xét đất ấy còn bỏ trống, mộ dân đến ở gọi là Châu-đốc tân-cương, đặt chức Quản đạo thuộc tỉnh Vĩnh. long quản hạt. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia đất ấy ra làm 2 phủ : Tuy-biên, Tân thành và đặt 4 huyện: Tây-xuyên, Phong-phú, Đông xuyên, Vĩnh-an (Tây-xuyền Phong phú thuộc phủ Tuy biên, Đông-xuyên, Vĩnhan thuộc phủ Tân thành). Đặt tỉnh An giang, đặt một Tổng đốc gọi là An Hà Tổng đốc, thống trị cả hai tỉnh An-giang và Hà tiên; lại đặt 2 ty Bố và Án. Năm thứ 16 (1835),

lại lấy đất Ba-thắc EA đặt thêm làm phủ Ba-xuyên, và đặt 3 huyện : Phong-nhiêu, Phong-thạnh và Vĩnh-định thuộc theo đó. Năm thứ 20 (1839) đặt thêm huyện An-xuyên thuộc phủ Tân thành thống hạt. Năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842) trích phủ Tĩnh-biên và huyện Hàdương của tỉnh Hà-tiên đổi thuộc về tỉnh này. Năm thứ 4 (1844) lại lấy huyện Hà-ẫn cải thuộc phủ hạt Năm Tự.Đức thứ 3 (1850) dẹp phủ Tĩnh.biên và huyện Hà-âm đem qui về huyện Hà-dương kiêm nhiếp mà thuộc về phủ Tuy-biên quản hạt. Còn 2 huyện Phong thạnh và Vĩnhđịnh do phủ Ba-xuyên kiêm nhiếp. Năm thứ 6 (1853) đem huyện Anxuyên qui về phủTân thành kiêm-nhiếp (Tỉnh này lãnh 3phủ, 10 huyện).

[merged small][merged small][ocr errors][merged small]

105 dặm, nam đến bắc cách 71 dặm. Phía đông đến huyệngiới Đông-xuyên phủ Tàn thành 5 dặm; phía tây đến huyện. giới Hà châu tỉnh Hà-tiên 100 dặm; phía Nam đến huyện-giới Long-xuyên tỉnh Hà-tiên 62 dặm ;phía bắc đến huyện giới Đôngxuyên phủ Tân thành 9 dặm. Nguyên trước là đất 2 huyện Vĩnh-an, Vĩnh-định của tỉnh Vỉnhlong. Năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) chia đặt làm phủ này, kiêm-lý huyện Tây-xuyên, thống-hạt huyện Đôngxuyên ; năm thứ 20 (1839), cải huyện Phong phú ở phủ Tân thành làm thống-hạt của phủ nầy. Năm Tư.Đức thứ 3 (1850) bỏ phủ Tĩnhbiên, lấy huyện Hà dương kiêm lý huyện Hà-âm mà do phủ này thống hạt. Cộng 4 huyện, 12 tổng, 110 xã thôn phường phố.

Huyện Tây xuyên 西 川縣

Đông đến tây cách 33 dặm, nam đến bắc cách 71 đặm. Phía đồng đến huyện Đông - xuyên 5 dặm; phía tây giáp huyện Hà dương 28 dặm; phía Nam đến huyện giới Long-xuyên 62 dặm và phía bắc đến huyện giới Đông-xuyên 9 dặm. Nguyên trước là đất huyện Vĩnh định và thổ. huyện Ngọc luật ở phía tây Hậugiang. Năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) mới chia tách ra huyện nầy thuộc phủ kiêm lý. Đến năm thứ 20 (1839) đem thổ - huyện Ngọcluật nhập vào huyện hạt này. Có 3 tổng, 38 xã thôn phổ bang.

Huyện Phong - phú * *

Ở đông nam phủ hơn 50 dặm. Đông đến tây cách 50 dặm, nam đến bắc cách 65 dặm. Phía đông đến huyện giới An.xuyên phủ Tân thành 6 dặm; phía đông đến huyện giới Kiên-giang tỉnh Hàtiên 44 dặm ; phía nam đến huyện giới Vĩnh định phủ Ba-xuyên 3 dặm ; phía bắc đến 2 huyện gới An-xuyên và Tây . xuyên 62 dặm. Nguyên trước là đất huyện Vĩnh-định và thỏ huyện Điều môn. Năm minh mạng thứ 13 (1832) phân tách ra thì tên huyện Vĩnh định cứ đề như cũ mà thuộc phủ Tân thành thống hạt. Năm thứ 20 (1839) cải lại ten huyện nầy, lại lấy thổ-huyện Điều-môn nhập với huyện này mà thuộc phủ Tuy biên thống hạt. Lãnh 3 tổng, 31 xã thôn.

Huyện Hà dương
Hà-drong河陽縣

Ở tây nam phủ 40 dặm. Đông đến tây cách nhau 68 dặm, nam đến bắc cách nhau 73 dặm Phía đông đến huyện giới Tây-xuyên 4. dặm ; phía tây đến huyện giới Hà châu tỉnh Hà-tiên 24 dặm; phía nam đến huyện giới Kiên-giang tỉnh Hà-tiên 38 dặm ; phía bắc đến huyện giới Hà âm 3 dặm. Nguyên trước là địa phận huyện Chânthành * * phủ Chân chiêm 4 của Trấn tây. Năm Minhmạng thử 20 (1839) trích đất 2 huyện Chân thành và Tây . xuyên đặt làm 2 huyện Hà Âm và Hà dương, lai đặt phủ Tĩnh-biên thuộc tỉnh Hà-tiên, lấy phía hữu sông Vĩnh-thạnh làm Hà dương, đặt phủ trị kiêm lý huyện Hà-dương và thống-hạt cả huyện Hà - âm. Năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842) cải huyện Hà-dương ở phủ Tĩnh-biên thuộc tỉnh hạt nầy, còn huyện Hà Âm vẫn thuộc phủ Tĩnh-biên tỉnh Hà-tiên. Năm thứ 4 (1844) đổi huyện nầy thuộc phủ Tĩnh-biên quản hạt như cũ. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) dẹp phủ Tĩnh biên, đem huyện Hàâm qui về huyện Hà dương kiêm nhiếp, thuộc phủ Tuy-biên quản hạt. Lãnh 4 tổng, 40 xã thôn phường phố.

Hugén Hà-Âm 河陰縣

Ở tây bắc phủ 80 dặm. Đông tây cách nhau 73 dặm, nam bắc cách nhau 42 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây.xuyên 38 dặm; phía tây đến huyện giới Hà-dương 25 dặm; phía bắc đến

cảnh-giới Cao man 17 dặm. Nguyên trước là đất của 2 huyện Tâyxuyên và Chân thành. Năm minh-mạng thứ 20 (1839) chia ra đặt huyện nầy, lấy phía tế sông Vĩnh-tế làm huyện Hà-âm, thuộc phủ hạt Tĩnh-biên. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) cải thuộc phủ An biên tỉnh Hà-tiên. Năm thứ 4 (1844) lại cải thuộc phủ Tĩnh biên. Năm Tự-Đức thứ 4 (1851) bỏ phủ Tĩnh.biên, lấy huyện Hà dương kiêm nhiếp huyện hạt nầy. Lãnh 2 tồng, 40 xã thôn.

Phủ Tân-thành đi từ H

Ở thiên về đông-nam tỉnh thành 140 dặm. Đông tây cách nhau 61 dặm, nam bắc cách nhau 191 dặm. Phía đông đến huyện giới Tuân nghĩa tỉnh Vĩnh long 25 dặm ; phía tây đến huyện giới Phong-phú phủ Tuy-biên 36 dặm ; phía nam đến huyện giới Phongphủ 34 dặm; phía bắc đến cảnh giới Cao.Man 162 dặm. Nguyên tước là địa phận 2 huyện Vĩnh.An và Vĩnh định tỉnh Vĩnh long. Năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) đặt tên phủ nầy, kiêm lý huyện Vỉnh định. Năm thứ 20 (1839) đặt thêm huyện An-xuyên thuộc phủ nầy, lấy huyện Vĩnh định làm thống hạt của phủ Ba-xuyên, lại cải huyện Đông-xuyên ở phủ Tĩnh biên làm thống hạt của phủ này. Năm Tự Đức thứ 6 (1853) dẹp huyện An xuyên đề phủ kiêm nhiếp. Phủ này có 3 huyện, 11 tổng, 94 xã thôn bang phổ.

Huyên Vinh-an 永安縣

Đông đến tây cách nhau 38 dặm, nam đến bắc cách nhau 22 dặm, Phía đông đến huyện giới An xuyên 2 dặm; phía tây đến huyện giới Phong-phủ ở phủ Tuy-biên 36 dặm; phía nam đến huyện An xuyên 12 dặm; phía bắc đến huyện giới Kiến phong ở tỉnh Định tường 10 dặm. Nguyên trước là tổng Vĩnh-an. Năm Gia. long thứ 7 (1808) thăng làm huyện, thuộc phủ Kiến viễn tỉnh Vĩnh. long. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) trích thuộc về phủ Tân thành kiêm lý. Có 4 tổng, 36 xã thôn bang phố.

Ở đông nam

nam đến bắc cách

Huyện An.xuyên k 川縣

phủ 24 dặm. Đông đến tây cách nhau 48 dặm, nhau 46 dặm. Phía đông đến sông tỉnh Vĩnh

long 8 dặm; phía tây đến giới hạn huyện Phong phủ ở phủ Tuybiên 40 dặm ; phía nam đến huyện giới Vĩnh-định thuộc phủ Baxuyên 30 dặm; phía bắc đến sông tỉnh Định tường 16 dặm. Nguyên trước là địa hạt huyện Vĩnh an. Năm Minh mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện này thuộc phủ Tân thành thống hạt. Năm Tự Đức thứ 6 (1853) qui về phủ kiêm nghiệp. Có 3 tổng, 25 xã thôn.

Huyện Đông-xuyên 東川縣

Ở tây-bắc phủ 127 dặm. Đông đến tây cách nhau 45 dặm, nam đến bắc cách nhau 41 dặm. Phía đông đến huyện giới Kiếnđăng tỉnh Định-tường 20 dặm ; phía tây đến huyện giới Tây.xuyên thuộc phủ Tuy-biên 25 dặm ; phía nam đến huyện giới Tây-xuyên 39 dặm ; phía bắc đến cảnh giới Cao.man 2 dặm. Nguyên trước là địa phận huyện Vĩnh định ở phía đông Hậu giang. Năm MinhMạng thứ 13 (1832) chia đặt huyện nầy thuộc phủ Tuy-biên thống hạt; năm thứ 20 (1839) cải thuộc phủ Tân-thành. Lãnh 4 tầng, 33 xã thôn.

Phủ Ba-xuyên E ] Ă

Ở đông-nam tỉnh thành 264 dặm. Đông tây cách nhau 64 dặm, nam bắc cách nhau 122 dặm. Phía đông đến biển và giáp tỉnh-giới Vĩnh-long 38 dặm ; phía nam đến biển 51 dặm ; phía bắc đến huyện Phong phú thuộc phủ Tuy-biên 71 đặm. Nguyên trước là đất phủ Ba thắc của Cao-man. Khi đầu Bản-triều trung-hưng chiếm lấy, đặt phủ An....., cho Man.dân lập đồn điền mỗi năm nạp lúa sưu thuế. Năm Nhâm-tỷ, Nặc.Ấn Ẽ Ép ở Xiêm về, vua đem đất ấy cho lại. Năm Minh.Mạng thứ 20 (1835) Phiên liêu (?) là bọn Trà-Long, NhâmTỷ khẩn cầu đặt quan chức đóng giữ, nên mới đặt lại là phủ Baxuyên. Khi đầu đặt chức Án phủ-sử, đến năm thứ 20 (1839) cho chức Án-phủ-sứ, mà lãnh việc Tri-phủ. Lại trích địa phận huyện Vĩnhđịnh chia làm 3 huyện Phong-nhiêu, Phong thạnh, Vĩnh-định. Sau đem Phong-nhiêu làm phủ kiêm lý 2 huyện Phong thạnh, Vĩnh định. Năm Tự-Đức thứ 3 (1850) giảm bớt quan lại, đem 2 huyện Phongthạnh, Vĩnh định do phủ kiêm nhiếp. Lãnh 3 huyện, 10 tổng, 83 xã, bang.

« TrướcTiếp tục »