Hình ảnh trang
PDF
ePub
[ocr errors]

Sông giang-thành ; ĐÃ

huyện Hà-châu, phát nguyên 3 chỗ : 1

giang k i qua núi Linh-quỳnh thành. 3 - từ

do sông Tùng

[ocr errors]

sông Vĩnh-tế rồi chảy vào Giang thành. 2 — do * * chảy qua đông-nam vào sông Giangnúi Trục-lộc jk Æ chảy qua đồng nam cũng vào sông Giang-thành. Sông Giang thành dài 10 dặm, chảy vào Đông. hồ rồi ra biển.

Sông Ling-ky隴奇江

Ở phía tây huyện Hà-châu, có núi xanh làm bình chướng, nước chảy quanh quất hình như chữ chi ≥ chữ huyền ả. Nơi đây là chỗ đầu tiên Mạc-Cửu đến khai thác.

Sông Vân-táp 雲集江

ở phía nam huyện Kiên giang, nước

chảy về hướng tây 17 dặm đến ngòi Trư núi Vân-tập rồi chảy ra biển.

[blocks in formation]

theo sông Thụy hà

, lại đi 8 dặm đến

Ở phía nam huyện Kiên giang 70 dặm, tục danh là sông Lớn. Phát nguyên 2 chỗ :1 – theo sông Phong-phú & ở Angiang đến. 2 theo sông huyện Phong-nhiều chảy về phía tây đến cảng Đại-môn Á 9 rồi ra biển.

Sông Tiêu-giang J
小 江

Ở phía nam huyện Kiên giang 50 dặm, tục danh sông Bé, nước theo phía tây nam sông huyện Phong-phủ chảy đến Huệ đà * Y hơn 80 dặm, ngang qua ngòi Thổ-phụ ± ‡ », rồi chảy 8 dặm đến Tiêu-đà J、 vào biển.

Sông Tân-xuyên * } }

Ở huyện Long-xuyên, nước theo sông huyện Phong thạnh chảy về phía tây đến thủ Giang-thành rồi chia ra 2 chi : 1 chi

theo ngòi Hoằng-thời ra biển, 1 chi chảy đến Viên-đà độ 5 dặm rồi chảy đến Hải-trạch 4 15 dặm làm sông Tânxuyên.

Sông Nghi-giang 沂

ở phía bắc huyện Long-xuyên, nước theo sông Tân xuyên chảy về phía bắc đến thủ Nghi-giang rồi chia ra 3 chỉ : 1 chi chảy qua nam 79 dặm đến Hoàng-giang rồi ra biển; 1 chi chảy qua phía bắc 2 dặm rồi quật lại chảy qua nam 80 dặm đến ngòi Gia

đại rồi vào biển, và 1

chi theo sông Nghi-giang chảy 80 dặm rồi quật

qua nam chảy 70 dặm vào biền.

Sống Khoa giang * :

Ở phía tây huyện Long-xuyên 107 dặm, sông có 3 chi chảy thông vào biển. Năm Đinh-dậu (1777), Thể.Tô Cao-Hoàng-Đế tránh quân Tây-sơn nhân có chiếc thuyền nhỏ đậu sông Khoa-giang, ban đêm vua muốn cỡi thuyền ấy qua biển, nhưng có con cá sấu đón ngăn trước thuyền làm ngăn trở đến 3 lần, vua bèn ở lại, khiến người dò thảm, thì ở trước quả có du thuyền của Tây-sơn, khi ấy vua phải dời qua đảo Thổ châu.

Sông Bồ-đề * Để

Ở phía nam huyện Long-xuyên 70 dặm, nước theo ngòi Tây. cừ chảy về hướng tây 40 dặm, đến thủ Tam-giang =} | chuyền qua nam chảy 8 dặm rồi vào biển, Lại có 1 chi theo thủ Tam-giang chảy qua tây nam 10 dặm đến ngòi Cự-môn É P4 rồi ra biển,

Thập câu + 溝

Ở giới hạn 2 huyện Kiên-giang và Long-xuyên, từ câu (ngòi) thứ nhất đến câu thứ 10 chảy ngang hàng đều quảng cùng nhau, nước theo trong ruộng chằm chảy thông ra biển; có sinh nhiều thứ cá chạch.

[blocks in formation]

Ở huyện Long xuyên, có 3 tên nữa là đầm Biên-bức Đa lớn,

đầm Trư tầng và dầm Điều

; bùn lầy ướt át, cỏ cây

lẫn lộn, lợi cá tôm không xiết dùng hết.

Chằm Ngũ-trạch ≠

Viên

ở huyện Long-xuyên : 1 – trạch ] *,3 – Hải trạch 4 4, 4 – Di-trạch đã 4,5 – Trách 圓澤,3

[ocr errors]

-Truòng-trach 長澤,2 海 澤,4

瀰 澤,

trạch và g, tục danh là Ngũ hồ, có sinh nhiều cá tôm.

[blocks in formation]

ở huyện Long-xuyên, nước theo trong đồng ruộng chảy đến

rồi chảy ra biền.

Lâm tầu +} * (rừng ao)

Ở chỗ giáp giới 2 huyện Kiên-giang và huyện Long-xuyên, cỏ cây xanh rậm, dài rộng mịt mù, làm sào huyệt cho loài điều thú.

CỔ TÍCH &

Trấn thự cũ Hà-Tiên J ích để đặt t

tây-bắc) ngỏ

Ở huyện Hà-châu, quay lưng về hướng kiền ( mặt tới hướng tốn ( đông nam), lấy núi Bình-sơn làm hậu vệ, lấy núi Tô-châu làm tiền án; biển lớn ngăn ở phía nam, hồ Đồng làm hào phía trước, 3 mặt đều có lũy đất, từ bến Dương đến cửa sau dài 152 trượng, cửa hữu đến cửa tả 53 trượng rưỡi, từ cửa tả đến thuyền-sưởng ra Đông hồ 380 trượng rưỡi; thành cao 4 thước, hào rộng 10 thước, ở giữa làm công- thụ, vọng cung, 2 bên tả hữu công-thự bố liệt trại quân. Trước sân có cầu Tân thạch g Á tê, bên tả có Tiếp sứ quán là về kề, bên hữu có công.

khố Ả *, dinh quan Hiệp-trấn ở sườn núi Ngũ hổ, ngoài Thánh cung có chợ trấn nhóm họp, phía tả công thự có miếu Quan.Thánh, phía đông công thự ngó xuống bến hồ, sau có chùa Tam bảo = 3 #, phía tả có đền thơ Mạc-công, bến chợ trấn có trại cá, phía bắc công-khố có miếu Hội đồng, phía bắc miếu có sưởng đãng-thuyền, đáp đại lộ để chia khu vực ngang dọc. Phía tả miếu Quan-Thánh có phố Điếu kiều, nơi đây có bắc cầu ván thông ra biển giáp đảo Đại-kim; phía đông phố Điếu-kiều là phổ chợ cũ và phổ chợ Tổ-sư, rồi kế đến phố lớn. Những di-tích này đều do Mạc-Thiên Tứ thuở trước đã kinh doanh, đường sá tiếp giáp, phố xá liên lạc, người Tàu người Cao-man và người Đồ-bà tụ tập cư trú, và những ghe thuyền ở các sông và ngoài biển qua lại đông đúc, làm thành đô hội ở nơi góc biển. Nhưng về sau bị nạn binh hỏa, nên xưa trăm phần mà nay không còn được một.

Lũy cũ Tân-khánh để người

Ở huyện Long-xuyên, khi trước Thể-Tổ Cao Hoàng-Để tỵ nạn Tây sơn có đình trú ở đấy, nay di-tich hãy còn.

[merged small][ocr errors]

Nơi đây nguyên đất phủ Cần bột ở ă của Cao.man, sau vua Cao-Man là Nặc-Tôn E i đem dâng (đời vua Thế-Tôn HiếuVỏ Hoàng-Đế) nay thuộc về Hà-tiên quản hạt. Địa hạt nầy có 1 con đường dọc theo bờ biển chạy quanh đến Phủ phiếu Namvang vi đi đâu *. Năm Minh Mạng 15 (1834) lấy đất Cần-bột làm phủ Quảng-biên đặt chức Án phủ-sử thuộc Hà-tiên quản hạt. Năm Thiệu Tri nguyên niên (1841) bỏ phủ này.

Huyện cũ Khai biên

Nguyên trước là đất Hương-úc của Cao-man mà

Nặc-Tôn đem dâng. Lúc đầu thuộc về Hà tiên ; tây, đông và 古 À của nước Tiêm, có đường thủy lục

bắc giáp trấn Cồ công k

lưu thông. Năm Minh-Mạng 15 (1834) đặt làm phủ Khai-biên, nằm 18 (1837) giảng xuống làm huyện, lại đặt thêm 1 huyện Kim-trường * * nữa, sau đổi tên là huyện Vĩnh-trường đều thuộc phủ Quảngbiên, năm Thiệu Trị nguyên-niên bỏ huyện.

Liñy cü Giang-thành 江城故

phía đông huyện Hà-châu ; lũy này nguyên xưa Mạc-Thiên. Tứ đắp. Đây là cảnh « giang thành dạ-cô i và * * trống đêm giang thành » trong 10 cảnh ở Hà-tiên, di chỉ vẫn còn.

QUAN TẤN BỊ Đ

Pháo đài Kim-dự k

Hình tròn, chu vi 17 trượng 3 thước 5 tấc, cao 6 thước 8 tấc, có 1 cửa bán-nguyệt, chân dài dựa theo bờ biển; có lũy bao quanh dài 180 trượng 7 thước, cao 3 thước 5 tấc, chân lũy đắp. ngang đến cửa tấn, lại đắp 1 pháo-yền đặt trên một súng lớn. Đài này ở trên đảo Kim-dự huyện Hà-châu, đắp năm Minh Mạng thủ 15 (1834). Lại có đồn Tiểu-kim dự chu vi 30 trượng, cao 3 thước.

Bảo dài Phù-anh * Để TH

Chu vi 664 trượng 8 thước, cao 6 thước, ở sau tỉnh lỵ, dài từ pháo-đài đến bờ sông Thủy trường * *, xây đắp năm MinhMạng 15 (1831).

Lãy dai Thi-Van 氏 萬長壘

Chu vi 2.720 trượng 7 thước, cao 6 trượng, ngoài lũy trồng tre và cây có gai; lũy này từ bờ sông Thị Vạn ngoài lũy Phù.anh chạy đến thổ sơn Lộc-trĩ, đắp năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).

Bảo Lô-khê 鱸溪堡

Chu vi 18 trượng 2 thước 8 tấc, cao 4 thước, ở địa giới huyện Hà-châu, đắp năm Thiệu-Trị nguyên niên (1841).

« TrướcTiếp tục »