Hình ảnh trang
PDF
ePub

1

KIẾN TRÍ DUYÊN CÁCH

(Kiến thiết để y cũ hay thay đổi mới)

Nguyên xưa là đất Việt-Thường. Đời nhà Tần (Trungquốc) thuộc về Tượng Quận, đời nhà Hán (T.Q.) thuộc quận Nhật-Nam (Từ Tần Hán về sau cương-vực không khảo cứu được, nên đây tạm cử đại lược mà thôi). Sau bị Lâm-Áp thôn tinh, rồi bị Chiêm Thành chiếm lấy làm đất Bà Đài (tức nay là Xuân-Đài), Đà-Lãng (nay gọi Đà-Diễn). Đời Lê Thánh Tồn, niên hiệu Hồng-Đức thứ 6 (1475) đánh Chiêm-Thành mở đất đến đây, lấy núi Thạch Bi làm giới hạn, nhưng từ núi CùMồng vào nam còn thuộc Man-lèo (mọi rợ). Qua triều Nguyễn đời vua Gia-Dụ-Hoàng-Đế (Chúa Tiên nhà Nguyễn năm thử 21 là năm Mậu dần 1578), vua ủy ông Lương-Văn-Chánh làm Trấn. biên-quan, chiêu tập lưu-dân đến Cù-Mong Bà-Đài, khẩn đất hoang ở Đà-Diễn. Năm thứ 54, Tân-hợi (1611), người Chiêm xâm lấn biên-cảnh, vua sai Chủ sự là Văn.Phong (thiếu họ) dẹp yên, lấy đất ấy làm 2 huyện Đồng-Xuân và Tuy.Hoà, đặt phủ Phú-Yên thuộc dinh Quảng Nam và dùng ông làm Lưu thủ. Đời vua Hy-Tôn Hoàng Đế (Nguyễn-Phúc-Nguyên) năm thứ 16 (Kỷ-ly, Lê.Đức.Long nguyên niên, 1629) Văn - Phong phản. nghịch, vua sai Phó-tưởng Nguyễn-Vinh đánh dẹp rồi lập dinh Trấn-biên, sau gọi là Phú-Yêu-dinh, đặt quan Tuần-thủ ; lại ở theo những chỗ duyên.biên gần biển đặt làm 38 thuộc (1). Đời vua

(1) Thuộc : lệ thuộc dưới chính quyền; một vùng rộng chia làm nhiều khu vực, cũng như thôn ấp vậy, mỗi thuộc có một Thuộc-Trưởng.

7

(1773, năm Lê-Cảnh-Hưng 34 tức 1773), đất này bị Tây-Sơn chiếm cứ, đầu lúc trung hưng mới thâu phục. Qua năm Gia-Long thứ 7 (1808) đổi làm Trấn và đặt chức Trấn thủ. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) lại đặt làm Phú-Yên phủ đặt chức Tri-phủ. Năm thứ 12 (1831) đổi làm Tuy-An-phủ thuộc vào Bình-Định. Năm thứ 13 (1832) phân hạt, thăng làm Phú-Yên-tỉnh, đặt 2 ty Bố-chính và Án-sát, thuộc Bình.Phú Tổng-đốc thống hạt. Năm Tự-Đức thử 6 (1853) đổi làm Đạo, đặt 1 Quản-đạo, văn thơ số sách phải viết 3 chữ Bình-Định-ỉnh lên đầu. Năm thứ 12 (1859) đặt thêm chức Tuyên-phủ sứ; năm thứ 16 (1863) giảm chức Tuyên-phủ, lại đặt Chính Phó quản đạo (1 chánh, 1 phó). Năm thứ 29 (1876) lại đặt làm tỉnh với 2 ty Bố, Án, cũng thống hạt như cũ (thống hạt Bình Phú Tông-đốc). Năm Thành-Thái 11 (1899) lại đặt chức Tri huyện huyện Đồng-Xuân, thuộc phủ Tuy-Ao, và thăng huyện Tuy-Hòa làm phủ. Sau lại cắt miền thượng du của 2 phủ Tuy-An, Tuy-Hòa và huyện Đồng-Xuân đặt làm huyện Sơn Hòa, đặt chức Tri-huyện, thuộc vào phủ Tuy-Hoà. Tỉnh này nay lãnh 2 phủ 2 huyện.

PHỦ TUY-AN

Cách tỉnh 21 dặm. Đông đến tây 35 dặm, nam đến bắc 43 dặm. Từ phủly xuống phía đông đến biển 10 dặm ; tây đến địa giới huyện Sơn Hoà 25 dặm ; nam đến địa. giới phủ Tuy-Hoà 30 dặm ; bắc đến giáp-giới huyện ĐồngXuân 13 dặm. Nguyên trước là phủ Phú-Yên, năm Minh Mạng 12 (1831) đổi lại tên này (Tuy-An). Năm thứ 13 (1832) chia ra từng hạt, đặt chức Tri-phủ kiêm-lý Đồng-Xuân thống hạt Tuy-Hoà (1). Năm Tự Đức thứ 6 (1853) đổi làm

1

Tri

(1) Kiêm lý: Nghĩa là huyện Đồng Xuân không đặt viên huyện viên phủ Tuy An phải kiêm lý (kiêm-lý nghĩa như kiêm-trị) Thống hạt : nghĩa là huyện Tuy-Hòa tuy có viên Trihuyện, nhưng ở dưới quyền viên phủ Tuy An thống quản

Đạo, do Đạo kiêm-lý phủ. Năm 29 đổi làm Tỉnh, lại đặt Tri-phủ thống hạt như cũ. Năm Thành Thái 11 (1899) thăng huyện Tuy Hoà làm phủ, và đặt Tri-huyện huyện Đồng Xuân, trích tổng Xuân Sơn trong hạt chia đặt làm 2 tổng An-Sơn và An-Hải; trích tổng Xuân-Vinh chia đặt làm 2 tổng An-Vinh và An-Đức; lại trích 8 xã thôn ở huyện SơnHoà đặt làm tổng An Phú. đều thuộc phủ quản hạt Còn 2 tổng Xuân Đài và Xuân Sơn-thượng cải thuộc huyện Đồng-Xuân. Phủ Tuy.An nay thống hạt huyện Đồng Xuân và lãnh 5 tổng, 69 xã, thôn, phường.

HUYỆN ĐỒNG-XUÂN

nam

Cách tỉnh 3 dặm. Từ đồng đến tây 41 dặm, từ đến bắc 46 dặm. Từ huyện.lỵ xuống phía đông giáp biển 1 dặm; lên phía tây đến đất Mọi 40 dặm; phía nam đến địa giới phủ Tuy-An 11 dặm; bắc giáp-giới huyện Tuy-Phước tỉnh Bình-Định 35 dặm. Huyện này đặt ra từ thuở đầu khai quốc (Vào năm Tân-hợi (1611) khi Văn.Phong đánh dẹp Chiêm - Thành, như đã nói trên). Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) huyện nầy thuộc phủ Tuy-An kiêm .lý. Năm Tự Đức thứ 6 (1853) do đạo (Phú - yên) kiêm-lý. Năm Thành Thai 11 (1899) triều đình lại đặt Tri-huyện, trích lấy tồng Xuân-Đài của phủ Tuy-An chia đặt làm 2 tổng Xuân-Đài và Xuân-Bình, cùng tổng Xuân-Sơn-thượng cải tên làm tổng Xuân-Phong, lệ thuộc vào huyện mà thuộc phủ Tuy An thống hạt. Năm thứ 12 (1900) trích lấy 6 thôn trong tổng Xuân-Phong của huyện hạt nầy tháp - nhập vào tổng Sơn-Xuân huyện Sơn-Hoà. Huyện Đồng-Xuân nay lãnh 3 tổng. 47 xã, thôn, phường, ấp.

PHỦ TUY-HOÀ

Cách tỉnh 45 dặm. Từ đồng đến tây 29 dặm, từ nam

dặm; phía tây đến giới huyện Sơn-Hoà 25 dặm; phía nam đến giới phủ Ninh-Hoà tỉnh Khánh-Hoà 25 đặm; phía bắc đến giới phủ Tuy-An 8 dặm, Thuở đầu khai - quốc, phủ này được đặt làm huyện (vào năm Tân-Hợi đã nói trên). Năm Minh-Mạng thứ 7 (1826) thuộc phủ Tuy-An kiêm - lý, đến năm Tự Đức thứ 6 do Đạo (Phú Yên) kiêm lý. Năm Thành Thái 11 (1899) triều đình cải thăng làm phủ, đặt Tri phủ thống hạt huyện Sơn-Hoà, lãnh coi 5 tổng (Hoà Đa, Hoà Bình Hoà . Mỹ, Hoà - Lạc, Hoà . Lộc). Năm thứ 12 (1900) trích lấy 12 xã thôn trong tổng Sơn-Tường của huyện Sơn-Hòa đặt làm tổng Hòa-Tường thuộc về phủ nầy. Nay phủ TuyHòa lãnh 6 tổng 109 xã, thôn, phường, ấp,

HUYỆN SƠN-HÒA

Cách tỉnh 58 dặm. Từ đồng đến tây 45 dặm, từ nam đến bắc 42 dặm. Từ huyện.lỵ xuống phía đông đến giới phủ TuyAn 15 dặm; phía tây đến đất Mán 30 dặm ; phía nam đến giới phủ Tuy-Hòa 11 dặm rưỡi; phía bắc đến giới huyện Đồng.Xuân 30 dặm rưỡi. Nguyên trước là đất của Tuy-An, Tuy Hoa và Đồng-Xuân. Năm Thành-Thái 11 (1899) chia cắt các fồng thượng du của 3 phủ huyện đặt làm 4 tổng Sơn-Lạc, SơnXuân, Sơn Tường và Sơn-Bình đặt làm huyện nầy. Năm thứ 12 (1900) trích lấy 8 xã thôn trong huyện hạt này tháp nhập phủ Tuy-An, và 12 xã thôn nữa tháp nhập phủ Tuy-Hòa (có nói rõ ở trên). Còn phần đất dư lại thuộc 4 thộn trong tổng Sơn-Tường (sau khi đã trích nhập Tuy-An và Tuy-Hòa) và cắt các xã trong tổng Sơn-Bình cận với 4 thỏn ấy hiệp làm một tổng (đề y tên cũ là tổng Sơn-Tưởng). Nay huyện Sơn Hòa lãnh 4 tầng, 43 xã thôn, phường, ấp.

HÌNH THẾ

Phía tây chế ngự mán lèo, phía đồng chận ngăn miền biển. Núi Đại-Lãnh đứng phía nam, núi Cù-Mong chế phía bắc. Núi có tiếng dựng nên hình thẳng, thì có Thạch Bi (núi Đá-Bia), Chủ-Sơn (Núi Chúa) và Vụ Mã; sông có danh bao bọc yếu xung, thì có Đà-Diễn, Thạch-Bàn và Phủ. Ngân. Lại còn hồ đầm xen lộn, cồn đảo ôm quanh, của biền đầu nguồn, khách buồn tụ tập. Đất tuy hẹp nhỏ, mà dân cư khá đồng, sản vật dồi dào, ấy cũng là một yếu-xử bực trung vậy.

« TrướcTiếp tục »